Khi drone tuần thám rừng

Tại một khoảnh rừng trồng từ năm 2022 ở phường Quy Nhơn Tây của tỉnh Gia Lai, các kỹ thuật viên của công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn chuẩn bị triển khai thiết bị bay không người lái (drone) để kiểm tra rừng định kỳ vào tuần thứ ba của tháng 7.
Chiếc drone được công ty mua từ ngày đầu trồng rừng với giá 70 triệu đồng, với sự hỗ trợ nâng cao năng lực trong áp dụng công nghệ, kỹ năng sử dụng thiết bị của phía triển khai dự án dự án "Nhân rộng Quản lý Rừng Bền vững và Chứng chỉ rừng" (viết tắt SFM).
Drone thay cho sức người
Dự án SFM được Bộ Hợp tác và Phát triển Kinh tế Liên bang Đức (BMZ) ủy quyền, Ban Quản lý các Dự án Lâm nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ) thực hiện từ năm 2022 đến năm 2025.
Trao đổi với các nhà báo đến từ hai miền Nam Bắc và các nhà báo địa phương tại hiện trường biểu diễn drone tuần thám hôm 18.7, ông Nguyễn Hoài Nam, Trưởng phòng Kỹ thuật Công ty Lâm nghiệp Quy Nhơn cho biết công ty trước đây quen với phương pháp kiểm tra truyền thống vốn được thực hiện nhiều năm qua.
Tuy nhiên, sau khi nhận được đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật từ Dự án SFM, phía công ty nhanh chóng nhận ra drone không chỉ tiết kiệm thời gian và chi phí mà còn cung cấp dữ liệu chính xác hơn nhiều.
Chương trình đào tạo bao gồm kỹ năng vận hành drone, phân tích hình ảnh và ứng dụng dữ liệu bay trong quản lý rừng. Từ việc kiểm tra một lần mỗi tháng với 4 nhân viên, các công ty lâm nghiệp có thể thực hiện 3 lần kiểm tra/tháng chỉ với 2 người; tăng diện tích giám sát từ 40 hecta lên 450 hecta mỗi lần và giảm thời gian thực hiện từ 7 ngày xuống 2 ngày.
Bên cạnh việc giảm chi phí hậu cần, việc sử dụng drone trong tuần thám rừng còn giúp nâng cao độ chính xác dữ liệu thông qua hình ảnh đa phổ độ phân giải cao.
Việc đào tạo thành công đã khơi dậy sự đổi mới, và công ty Quy Nhơn đã quyết định đầu tư mua chiếc drone đầu tiên hoạt động giám sát rừng của mình. Sau vài năm dùng chiếc drone này, ông Nam cho biết đến cuối năm nay công ty sẽ mạnh dạn sắm drone mới, dự kiến khoảng 300 triệu đồng.
Công ty thứ hai ở địa bàn cũng dùng drone được trang bị camera quang phổ là công ty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn. Ông Nguyễn Ngọc Đạo, Giám đốc Công ty Lâm nghiệp Sông Kôn, cho hay công ty đã mua 2 chiếc drone với giá 100 triệu/chiếc vào năm ngoái và hoàn toàn hài lòng về giá trị mà drone mang lại trong việc quản lý rừng, bao gồm việc giám sát các khu vực rộng lớn và cả những vùng xa xôi.
Theo ông, drone giúp hiện đại hóa quản lý rừng bằng cách sử dụng công nghệ thực hiện việc kiểm kê chi tiết, giám sát đa dạng sinh học và đánh giá trữ lượng carbon theo thời gian thực.
Nỗ lực hợp tác công nghệ Việt Nam – Đức
Thông qua các mô hình được triển khai theo dự án SFM tại hai công ty Sông Kôn và công ty Quy Nhơn, có thể thấy được hợp tác lâm nghiệp giữa Việt Nam và Đức đã đạt được những thay đổi đáng kể trong những năm gần đây, đặc biệt là trong việc ứng dụng công nghệ vào công tác quản lý và bảo vệ rừng.
Chia sẻ với Báo Thanh Niên, bà Carina van Weelden, Cán bộ Quản lý thực hiện dự án, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ), đề cập một trong những sáng kiến nổi bật là việc triển khai công cụ Giám sát và Báo cáo Không gian (SMART). Đây là giải pháp toàn diện kết hợp phần mềm, tài liệu đào tạo và các tiêu chuẩn thực thi nhằm hỗ trợ công tác bảo tồn rừng.
Kể từ năm 2016, GIZ cùng Cục Lâm nghiệp Việt Nam đã hợp tác triển khai SMART, tiêu chuẩn hóa mô hình dữ liệu và xây dựng các hướng dẫn cho việc áp dụng trong hệ thống các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên trên toàn quốc.
Hệ thống này không chỉ giúp tăng cường giám sát mà còn cung cấp công cụ giúp các cơ quan quản lý đưa ra quyết định nhanh chóng và hiệu quả. Điển hình là Vườn Quốc gia Xuân Liên (tỉnh Thanh Hóa), nơi công nghệ SMART đã được áp dụng thành công, góp phần vào quá trình bảo vệ tài nguyên rừng và cải thiện công tác quản lý.
Bên cạnh đó, cán bộ của GIZ cho biết việc đưa vào sử dụng các công nghệ truy xuất nguồn gốc gỗ theo yêu cầu của EUDR (Quy định về Chống phá rừng của Liên minh châu Âu) cũng là một điểm nhấn trong hợp tác này.
EUDR đã được lùi thời gian thi hành 1 năm so với ban đầu, và hiện thời hạn tuân thủ được điều chỉnh cho các doanh nghiệp lớn là vào ngày 30.12.2025 và cho doanh nghiệp nhỏ là từ ngày 30.6.2026, để các bên liên quan có thể chuẩn bị đầy đủ hơn.
Hai công nghệ được áp dụng bao gồm INATrace, được triển khai để giúp các hộ nông dân và doanh nghiệp đảm bảo tính minh bạch trong chuỗi cung ứng gỗ toàn cầu. Công nghệ đó không chỉ tạo ra sự minh bạch mà còn đảm bảo quyền lợi cho người sản xuất, giúp họ nhận được thanh toán công bằng.
Công nghệ thứ hai là DIASCA, một công nghệ hạ tầng kỹ thuật số mở nhằm kết nối và hỗ trợ các chuỗi cung ứng nông sản bền vững, giúp tăng cường tính minh bạch và khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm toàn cầu.
DIASCA phát triển các tiêu chuẩn mở để các hệ thống truy xuất nguồn gốc có thể tương tác hiệu quả, tạo ra một nền tảng hỗ trợ các doanh nghiệp trong ngành nông sản, lâm nghiệp chứng minh tính hợp pháp và bền vững của sản phẩm.
Bà van Weelden cũng nhắc đến mô hình đánh giá rủi ro về sức gió đối với rừng trồng, đặc biệt là các khu trồng rừng ở tỉnh Gia Lai, vốn được GIZ hợp tác thực hiện với Ban Quản lý Dự án Lâm nghiệp.
Theo bà, một trong những thách thức lớn của ngành lâm nghiệp hiện nay là việc đối phó với các hiện tượng thời tiết cực đoan như gió mạnh và bão, đặc biệt là ở các tỉnh ven biển. Dự án SFM đã nghiên cứu và phát triển mô hình trên, nhằm xác định mức độ rủi ro và đưa ra các đề xuất về những biện pháp hiệu quả để giảm thiểu tác động của gió như lựa chọn địa điểm trồng, đa dạng hóa loài cây và tỉa thưa đúng thời điểm.
Những kết quả từ nghiên cứu này không chỉ có giá trị đối với các tỉnh hiện tại mà còn có thể được áp dụng cho các khu vực khác, đóng góp vào công tác quy hoạch đất đai và phát triển rừng bền vững ở cấp độ quốc gia.
Và tất nhiên, không thể không nhắc đến drone. Bà van Weelden cho biết việc ứng dụng drone trong giám sát rừng đã được triển khai thời gian qua cho hai công ty Sông Kôn và công ty Quy Nhơn.
Thông qua thời gian sử dụng, phía công ty và dự án xác định được việc sử dụng drone cho phép dễ dàng tiếp cận những khu vực khó khăn, xa xôi, đồng thời giảm rủi ro chấn thương cho nhân viên thực địa, thu thập dữ liệu theo thời gian thực và hành động nhanh chóng khi phát hiện sớm các mối đe dọa như khai thác gỗ trái phép hay cháy rừng.
Trong khi các cuộc tuần tra giám sát rừng bởi con người tốn khoảng 100-150.000 đồng/người/chuyến, nếu dùng drone sẽ không phát sinh thêm chi phí vận chuyển, ngoại trừ chi phí ban đầu bỏ ra để mua thiết bị.
Tiếp tục nghiên cứu những giải pháp mới
Cùng với việc triển khai các công nghệ hiện tại, hợp tác Việt – Đức trong lĩnh vực lâm nghiệp cũng không ngừng nghiên cứu và phát triển các giải pháp mới.
Bà van Weelden đề cập đến một trong những sáng kiến mới nhất là ứng dụng Wood ID, công cụ sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để nhận diện các loại gỗ chỉ bằng một lần chụp ảnh qua điện thoại thông minh được lắp thêm ống kính macro để chụp cận cảnh.
Mục đích chính của Wood ID là hỗ trợ việc truy xuất nguồn gốc và xác định các loài gỗ trong chuỗi cung ứng, giúp tăng cường tính minh bạch và giảm thiểu việc khai thác trái phép hoặc sử dụng gỗ không hợp pháp.
Những công nghệ và sáng kiến kể trên đều mang lại những kết quả tích cực trong việc nâng cao hiệu quả quản lý rừng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và tăng cường sự minh bạch trong chuỗi cung ứng gỗ.
Đây là các công nghệ không chỉ giúp ngành lâm nghiệp Việt Nam giám sát và phát triển rừng bền vững, mà còn mở ra cơ hội kết nối với các thị trường quốc tế.
Hợp tác giữa Việt Nam và Đức chứng tỏ công nghệ có thể được áp dụng trong việc hỗ trợ giải quyết các thách thức lớn của ngành lâm nghiệp trong thời hiện đại, giúp Việt Nam củng cố năng lực trong chuỗi cung ứng và chế biến gỗ hợp pháp trên toàn cầu.