Hơn 10 triệu người Việt mắc bệnh thận mạn: Cần chặn bệnh từ cửa ngõ

(Dân trí) - Số ca suy thận giai đoạn cuối tăng nhanh, đặc biệt ở người trẻ, tạo áp lực cho hệ thống lọc máu và ghép thận. Trước thực trạng này, Đại hội đồng Y tế thế giới đã thông qua nghị quyết về sức khoẻ thận.
Nhiều người mắc bệnh thận mạn tưởng mình khỏe mạnh
Theo thống kê mới nhất của Bộ Y tế, Việt Nam hiện có trên 10 triệu người mắc bệnh thận mạn, trong đó khoảng 26.000 bệnh nhân đã bước vào giai đoạn cuối, cần lọc máu định kỳ hoặc ghép thận để duy trì sự sống.
Đáng lo ngại hơn, tỷ lệ người trẻ mắc bệnh đang tăng nhanh và phần lớn chỉ phát hiện khi bệnh đã trở nặng do thiếu thói quen kiểm tra sức khỏe định kỳ và chủ quan trước các dấu hiệu cảnh báo ban đầu.
Đáng lo ngại, hơn 90% số này không ý thức được tình trạng bệnh cho đến giai đoạn muộn do bệnh thận mạn diễn tiến âm thầm, không triệu chứng rõ ràng ban đầu
Việt Nam hiện nằm trong nhóm nước có tỷ lệ bệnh thận mạn cao nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tạo gánh nặng bệnh tật và kinh tế lớn cho người bệnh, gia đình và hệ thống y tế.
Đặc biệt, bệnh đang có xu hướng “trẻ hóa”, với nhiều người 20-40 tuổi bị suy thận giai đoạn cuối.
Các trường hợp suy thận ở người trẻ thường liên quan đến viêm cầu thận (bệnh IgA, lupus ban đỏ...), bệnh nền (tăng huyết áp, tiểu đường) hoặc lối sống thiếu lành mạnh, lạm dụng thuốc tùy tiện gây hại thận.
Tâm lý chủ quan “trẻ khỏe” khiến nhiều người không khám sức khỏe định kỳ, dẫn đến phát hiện bệnh muộn khi chức năng thận đã suy giảm nghiêm trọng.
Hệ quả là số bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối ngày một tăng nhanh, tạo áp lực quá tải lên hệ thống điều trị thay thế thận.
Hiện cả nước có khoảng 26.000 bệnh nhân suy thận cần lọc máu định kỳ hoặc ghép thận để duy trì sự sống. Tuy nhiên, với hơn 400 đơn vị thận nhân tạo cùng khoảng 5.000 máy lọc máu, mỗi năm mới phục vụ được khoảng 30.000 bệnh nhân, chỉ đáp ứng chừng 30% nhu cầu điều trị lọc máu trên cả nước.
Sàng lọc, điều trị sớm: Giải pháp cho bệnh nhân và nguồn lực y tế
Chẩn đoán và điều trị sớm là rất quan trọng, giúp bệnh nhân có thêm thời gian sống với tình trạng sức khỏe ổn định hơn, đồng thời giúp cải thiện triệu chứng cũng như bảo vệ bệnh nhân khỏi nguy cơ biến chứng nguy hiểm, bao gồm tử vong.
Tuy nhiên, theo GS.TS.BS Nguyễn Lân Việt, Phó chủ tịch thường trực Hội Tim mạch học Việt Nam, thực tế, bệnh thận mạn thường không có hoặc có khá ít các triệu chứng trong giai đoạn đầu nên thường bị bỏ sót trong quá trình chẩn đoán.
Một số khảo sát cho thấy 80,3% bệnh nhân có nguy cơ cao bệnh thận mạn như bệnh nhân đái tháo đường, tăng huyết áp, còn chưa được thực hiện các xét nghiệm tầm soát để chẩn đoán bệnh thận mạn theo đúng khuyến cáo.
Bệnh thận mạn là một căn bệnh nguy hiểm, nhưng lại tiến triển âm thầm và không có triệu chứng rõ ràng cho đến khi tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng. Tại Việt Nam, rất nhiều trường hợp được chẩn đoán khi bệnh đã ở giai đoạn cuối, gây khó khăn lớn trong việc điều trị và làm tăng tỷ lệ tử vong.
Có tới 33% bệnh nhân bệnh thận mạn tiến triển đến tử vong sau 5 năm và 12% tiến triển đến giai đoạn cuối phải lọc máu hoặc ghép thận. Điều này không chỉ làm suy giảm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân mà còn gia tăng gánh nặng kinh tế của gia đình và xã hội.
Cần đưa quản lý thận vào các gói lợi ích bao phủ y tế toàn dân.
Bệnh thận mạn là gánh nặng y tế lớn trên toàn cầu. Do đó, vào tháng 5 tại Thụy Sĩ, lần đầu tiên trong lịch sử, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã thông qua nghị quyết về sức khỏe thận tại kỳ họp lần thứ 78 của Đại hội đồng Y tế Thế giới (WHA78).
Nghị quyết kêu gọi các quốc gia thành viên cần đưa vấn đề dự phòng, phát hiện sớm và quản lý bệnh thận vào các chính sách y tế quốc gia và đưa quản lý thận vào các gói lợi ích bao phủ y tế toàn dân.
Mục đích là cung cấp bảo vệ rủi ro tài chính và tiếp cận phổ cập với toàn bộ các sản phẩm - dịch vụ chăm sóc thận chất lượng và bền vững, dần dần bao gồm cả thẩm tách phúc mạc và chạy thận nhân tạo, ghép thận và chăm sóc thận bảo tồn.
Các sản phẩm - dịch vụ này được cung cấp bởi lực lượng nhân viên y tế được đào tạo đầy đủ, cho tất cả các cá nhân mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.
Thực tế, các loại thuốc điều trị bệnh thận tiết kiệm chi phí hiện đã có sẵn, tiếp tục được phát triển và có thể làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc và tử vong do bệnh thận cũng như các bệnh không lây nhiễm khác thường cùng tồn tại với bệnh thận như: tăng huyết áp, tiểu đường và bệnh tim mạch.
Tuy nhiên, tồn tại thực trạng các loại thuốc có hiệu quả cao này, cũng như các loại thuốc chẩn đoán và vật tư tiêu hao cần thiết cho lĩnh vực chăm sóc thận, không có sẵn hoặc không có sẵn ở nhiều quốc gia đang phát triển.
Theo WHO, các quốc gia cũng cần tăng cường năng lực thể chế quốc gia để tiến hành các đánh giá công nghệ và can thiệp y tế nhằm định hướng việc mở rộng quy mô từng bước các chương trình y tế bền vững và hiệu quả về chi phí của chính phủ nhằm giải quyết bệnh thận một cách toàn diện.
Bên cạnh đó cần thúc đẩy hợp tác đa ngành và đa bên, với sự giám sát thích hợp của chính phủ, để phát triển và hỗ trợ việc cung cấp tiến bộ các dịch vụ chăm sóc thận toàn diện, không bị gián đoạn và bền vững và có các quy định phù hợp để đảm bảo chất lượng cung cấp dịch vụ;
“Tăng cường và tích hợp việc giám sát gánh nặng bệnh thận, tiếp cận chăm sóc, chất lượng chăm sóc và các kết quả về bệnh tật và tử vong vào các hệ thống thông tin y tế quốc gia, để thông báo các quyết định chính sách và hướng dẫn nghiên cứu”, WHO kêu gọi.
Trên thực tế, Bộ Y tế Việt Nam đã ban hành “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh thận mạn và một số bệnh lý thận” vào tháng 8/2024.
Bộ hướng dẫn này tạo nền tảng quan trọng giúp chuẩn hóa thực hành lâm sàng, đảm bảo bác sĩ các tuyến đều có chung một quy trình chẩn đoán, điều trị theo bằng chứng mới nhất.