Hạn mức cho vay ngang hàng đủ để khởi nghiệp

Đó là nhận xét của nhiều người về "quota" cho vay ngang hàng (P2P Lending) trong 2 quyết định vừa ban hành của Ngân hàng Nhà nước. Đây cũng là cơ sở pháp lý cho hoạt động này thời gian tới.
Mức vay 100 triệu đồng/sàn, tổng dư nợ các sàn 400 triệu đồng
Theo Quyết định 2866 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), một khách hàng có thể vay tối đa tại một công ty P2P Lending 100 triệu đồng, còn tổng dư nợ ở tất cả các giải pháp cho vay ngang hàng cùng tham gia cơ chế thử nghiệm có kiểm soát là 400 triệu đồng. Đồng thời, cơ quan này cũng ban hành Quyết định số 2970 hướng dẫn về việc kết nối, báo cáo và kiểm tra thông tin tín dụng của khách hàng giữa các công ty cho vay ngang hàng và Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia VN (CIC).
Cho vay ngang hàng là hình thức kết nối trực tuyến giữa người cho vay và người đi vay thông qua nền tảng online, không cần qua ngân hàng hay công ty tài chính. TS Đinh Thế Hiển, Viện trưởng Viện nghiên cứu Tin học và Kinh tế ứng dụng, nhận xét "quota" vay một sàn tối đa 100 triệu đồng và tổng dư nợ ở các sàn là 400 triệu đồng là lớn đối với người dân khi chưa tiếp cận được vốn vay ngân hàng. Con số này đủ để làm vốn khởi nghiệp nhưng vẫn nằm trong khả năng chi trả, xử lý đối với nhà đầu tư và khách hàng. Ông Trần Thế Vĩnh, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn TIMA, cũng đánh giá hạn mức vay tối đa 100 triệu đồng là phù hợp. Hiện nay, công ty ông đang tiến hành các giải pháp kỹ thuật, kết nối với CIC… để hoàn tất thủ tục xin giấy phép tham gia cơ chế thử nghiệm.
PGS-TS Trần Hùng Sơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển công nghệ ngân hàng (Trường ĐH Kinh tế - Luật), lưu ý VN có thể nghiên cứu các bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc khi triển khai mô hình P2P Lending. Một trong những lý do khiến thị trường P2P Lending tại Trung Quốc sụp đổ trước đây là do sự thiếu kiểm soát, dẫn đến các mô hình kinh doanh gian lận và rủi ro tín dụng khổng lồ. Nguyên nhân do ban đầu thị trường này hoạt động trong một "khoảng trống pháp lý", không có sự giám sát hiệu quả. Các nền tảng lừa đảo mọc lên như nấm, và không có cách nào để theo dõi dòng tiền hoặc lịch sử tín dụng của người vay một cách có hệ thống.
"Những quy định của NHNN là hợp lý để hạn chế rủi ro và bảo vệ người vay. Việc đặt ra giới hạn cho vay là bước đi thận trọng và cần thiết. Điều này rất giống với cách Trung Quốc sau đó đã áp đặt các giới hạn nghiêm ngặt để kiểm soát rủi ro", ông Trần Hùng Sơn nhận định. Theo chuyên gia này, các quy định nói trên giúp ngăn chặn một cá nhân vay quá khả năng chi trả, giảm thiểu gánh nặng nợ nần và hạn chế tác động tiêu cực nếu một nền tảng P2P sụp đổ. Đồng thời, quy định còn minh bạch hóa thông tin tín dụng khi yêu cầu các doanh nghiệp báo cáo khoản vay về CIC là một công cụ quản lý cực kỳ quan trọng. Nó tạo ra một hệ thống giám sát tập trung, giúp NHNN và các tổ chức khác có cái nhìn toàn cảnh về dư nợ P2P của mỗi cá nhân. Từ đó, giúp ngăn chặn tình trạng một người vay từ nhiều nền tảng khác nhau để "đảo nợ", một vấn đề phổ biến trong các thị trường tài chính chưa trưởng thành.
Chưa có cơ chế bảo vệ người cho vay
Dù vậy, PGS-TS Trần Hùng Sơn cũng cho rằng vẫn còn những thách thức khi triển khai P2P Lending về năng lực giám sát và thực thi. Trung Quốc đã ban hành một bộ quy tắc rất toàn diện, nhưng quá trình đăng ký và kiểm tra lại "kéo dài và có thể thay đổi", gây ra sự không chắc chắn cho ngành. Câu hỏi đặt ra cho VN là liệu CIC có đủ nguồn lực và công nghệ để xử lý, phân tích lượng dữ liệu khổng lồ từ các nền tảng P2P một cách hiệu quả và kịp thời hay không? Việc kiểm tra, giám sát tuân thủ của các doanh nghiệp sẽ được thực hiện như thế nào? Thêm vào đó, chúng ta cũng phải lường trước nguy cơ các "vỏ bọc" tinh vi hơn xuất hiện. Thực tế tại Trung Quốc, nhiều nền tảng P2P đăng ký dưới dạng "công ty tư vấn" để lách luật và điều này hoàn toàn có thể xảy ra ở VN. Trong khi đó, các quy định của NHNN đang tập trung vào việc quản lý người đi vay.
"Bài học lớn nhất và đau đớn nhất từ sự sụp đổ của P2P Trung Quốc lại nằm ở phía bảo vệ nhà đầu tư (người cho vay). Hàng triệu nhà đầu tư Trung Quốc đã mất trắng tiền tiết kiệm vào các nền tảng lừa đảo hoặc quản lý yếu kém, gây ra bất ổn xã hội lớn. Vì thế, bên cạnh việc kiểm soát người đi vay, một câu hỏi quan trọng mà chúng ta cần đặt ra là quy định của VN đã có những biện pháp gì để bảo vệ người cho vay, nhà đầu tư khỏi các nền tảng lừa đảo hoặc quản lý yếu kém? Chúng ta cũng chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm của nền tảng trong việc thu hồi nợ, và cơ chế giải quyết tranh chấp khi người vay không trả được nợ", PGS-TS Trần Hùng Sơn đặt vấn đề.
Ở một góc nhìn khác, TS Đinh Thế Hiển cho rằng P2P Lending là nền tảng công nghệ mà nhà đầu tư và khách hàng tìm kiếm để thực hiện cho vay lẫn nhau, thoát khỏi định chế ngân hàng truyền thống. Ở đây, khi xét chấm điểm tín nhiệm của một người là dựa trên phân tích dữ liệu phi tập trung. Chẳng hạn hệ thống quét được trên những trang mạng xã hội thông tin, AI sẽ tập hợp và phân tích, chứ không hoàn toàn dựa vào đánh giá tín dụng trên hệ thống CIC thu thập được. Các sàn P2P Lending là đơn vị cung cấp dịch vụ tư vấn. Khi khách hàng gửi đơn, sàn sẽ thực hiện đánh giá tín nhiệm để chuyển thông tin của khách hàng đến để nhà đầu tư chọn lựa cho vay. Từ đó đề xuất mức lợi suất hợp lý, những người có mức tín nhiệm cao thì lãi thấp, còn người xếp hạng thấp thì lợi suất cao.
Vì thế ông Hiển nhấn mạnh việc kiểm soát cũng như mức độ rủi ro khi tham gia sàn P2P Lending là điều không thể tránh khỏi. Ngay cả các công ty tài chính hiện nay có kết nối với CIC, có kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên thị trường nhưng vẫn xảy ra tỷ lệ cho vay mất tiền, khó đòi nợ hay nợ xấu tỷ lệ cao. Điều này khiến các công ty phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp cho những khoản vay bị mất. Còn sàn P2P Lending là nơi cung cấp dịch vụ, nhà đầu tư, khách hàng tham gia sàn không hề biết nhau. Do đó nhà đầu tư ra quyết định cho khách hàng vay nên sẽ phải chịu rủi ro. Chính vì thế, hệ thống phân tích dữ liệu khách hàng vay mà các sàn cung cấp cho nhà đầu tư có vai trò rất quan trọng, giúp nhà đầu tư thực hiện quyết định cho vay hay không. "Nhà đầu tư lựa chọn sàn uy tín, sử dụng công nghệ Big Data để đánh giá hiệu quả tín nhiệm của khách hàng. Hoặc chấp nhận lãi suất cao để bù đắp cho phần đã mất. Trong trường hợp nhà đầu tư sợ rủi ro thì có thể quay về gửi tiết kiệm ngân hàng", ông Đinh Thế Hiển tư vấn.