GS Đỗ Trung Tá kể về quyết định giúp điện thoại xa xỉ thành đồ 'giắt cạp quần nông dân' - Báo VnExpress

GS.TSKH Đỗ Trung Tá, sinh năm 1945, nguyên là Ủy viên Trung ương Đảng khóa VIII, IX, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam và Bộ trưởng Bưu chính, Viễn thông. Trên cương vị người đứng đầu ngành bưu điện cách đây hơn 20 năm, ông tham gia vào nhiều quyết định quan trọng, làm thay đổi căn bản thị trường viễn thông Việt Nam. Một trong số đó là thúc đẩy cạnh tranh, thành lập các doanh nghiệp mới tham gia thị trường viễn thông.
- Đầu những năm 1990, điện thoại di động là món đồ xa xỉ, dành cho người giàu. Điều gì khiến thiết bị trở nên phổ biến chỉ sau vài năm?
- Đó là giai đoạn ngành bưu điện vừa kết thúc chặng đường tăng tốc (1993-2000). Từ một mạng viễn thông analog lạc hậu, Việt Nam đã số hóa toàn bộ; mật độ điện thoại tăng từ một máy trên 100 dân năm 1995 lên tỷ lệ 4,2/100 năm 2000; Internet Việt Nam khai trương năm 1997. Sự hình thành kinh tế thị trường trong nội bộ ngành bưu điện đã chín muồi cho một cuộc cải cách, mở cửa cạnh tranh.
Khi ấy, dịch vụ di động vẫn còn là mặt hàng xa xỉ. Cước hòa mạng và cước viễn thông cao so với thu nhập bình quân đầu người, nên chủ yếu phục vụ giới doanh nhân và các nhà quản lý. Nhưng điều này đã thay đổi chỉ trong thời gian ngắn, nhờ quyết định đột phá của ngành là xóa bỏ độc quyền, mở cửa thị trường viễn thông, mạng GSM roaming được với thế giới và mạng di động Viettel ra đời đầu những năm 2000, tạo ra sự cạnh tranh.
Ngay khi thị trường viễn thông mở cửa, giá cước giảm nhanh chóng, khiến "di động như cơm bình dân", "nông dân có di động giắt cạp quần", cơ hội tiếp cận dịch vụ viễn thông lan rộng từ thành thị tới nông thôn. Đây là bước tiến đáng tự hào của các mạng di động và là một thành công trong công tác quản lý nhà nước của ngành bưu điện.
- Để tạo sự cạnh tranh, ông phải chấp nhận phá vỡ thế độc quyền của VNPT - nơi ông giữ vai trò Chủ tịch HĐQT khi đó. Quyết định ấy khó khăn thế nào?
- Hội đồng quản trị VNPT lúc ấy hoàn toàn đồng tình với chủ trương. Nhiều người nghĩ tôi sẽ bảo vệ lợi ích của VNPT, nhưng sau đó đã thấy Viettel được độc quyền khai thác VoIP - dịch vụ gọi điện qua giao thức IP suốt hai năm, dù VNPT đã chuẩn bị cho dịch vụ này từ sớm. Chính dòng tiền đó giúp Viettel có nguồn vốn tích lũy để đầu tư mạng di động sau này.
- Sự cạnh tranh sau mở cửa đã tác động ra sao đến diện mạo ngành viễn thông Việt Nam?
- Sức mạnh của cạnh tranh có thể nhìn thấy ngay, thị trường viễn thông được mở rộng, dịch vụ len lỏi về tận nông thôn - nơi trước đây ít ai để ý. Tác động thứ hai là thúc đẩy nội lực phát triển của các công ty. VNPT không hề giảm sút doanh thu và lợi nhuận.
Nếu giữ độc quyền, thị trường giậm chân tại chỗ. Khi có thêm một doanh nghiệp mới ra đời, công ty cũ phải tự nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo của mình và phải làm tốt hơn, hiệu quả, trách nhiệm hơn. Thêm một doanh nghiệp là thêm một động lực, VNPT cũng phải tự đổi mới rất nhiều.
Không chỉ người dân, doanh nghiệp hưởng lợi, Nhà nước cũng có thêm nguồn thu. Tinh thần cạnh tranh trở thành động lực nội tại, kéo cả ngành bưu điện đi lên.
- Cùng với việc mở cửa thị trường, vì sao ông cũng kiên định bảo vệ việc lựa chọn công nghệ mạng di động GSM thay vì CDMA?
- Đây là giai đoạn Việt Nam đứng trước ngã rẽ công nghệ di động, giữa hai chuẩn GSM (châu Âu) và CDMA (Mỹ). Ngay từ những năm 1990, GSM đã được đưa vào Việt Nam, và sự xuất hiện của CDMA lúc đó chưa thích hợp.
CDMA có nhiều ưu điểm kỹ thuật, nhưng chưa thương mại hóa toàn cầu, chỉ loanh quanh vài thị trường như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hong Kong (Trung Quốc). Quan điểm của chúng tôi là viễn thông phải tiên tiến, tương thích, toàn cầu. Viễn thông là ngành kinh tế chứ không phải ngành kỹ thuật đơn thuần, do đó phải gắn công nghệ vào kinh tế.
Nếu theo đuổi CDMA 2G, chúng ta sẽ tốn kém, khó hòa nhập lên 3G và rơi vào tình thế "cái sau đá cái trước" khi hạ tầng đầu tư cũ chưa khấu hao xong. Thực tế 5 năm sau, CDMA 2G đóng cửa ở Việt Nam.
Kết quả của việc này đã rõ. Đến giữa những năm 2000, công nghệ di động GSM thắng thế tuyệt đối với lợi thế thiết bị giá rẻ, mạng lưới phủ sóng rộng toàn cầu, góp phần không nhỏ vào việc phát triển thuê bao di động.
- Trong quá trình làm "tư lệnh" ngành và phải đưa ra nhiều lựa chọn quan trọng, có điều gì khiến ông tiếc nuối?
- Nhiều lắm. Tôi từng ấp ủ đề án mua máy bay để bưu chính chở hàng hóa và hành khách Bắc - Nam, định hợp tác với Hong Kong dùng 800 xe của họ để làm taxi và chở hàng, nhưng cuối cùng không thành vì nhiều lý do.
Một tiếc nuối khác là hai lần ngành bưu điện bỏ lỡ cơ hội đưa chữ "công nghệ" vào tên gọi. Chúng tôi từng đề xuất thành lập Bộ Bưu chính, Viễn thông và Công nghệ thông tin, trên cơ sở Tổng cục Bưu điện. Lần thứ hai, chúng tôi xin đổi tên Bộ Bưu chính, Viễn thông thành Bộ Công nghệ thông tin và Truyền thông. Cả hai lần đều bị Quốc hội từ chối, lược bỏ chữ "công nghệ", vì dễ có sự nhầm lẫn với Bộ Khoa học và Công nghệ trước đây.
- Ngành bưu điện nay đã trở thành một phần trong Bộ Khoa học và Công nghệ mới. Ông cảm thấy thế nào về sự thay đổi này?
- Ngành bưu điện đã trải qua 80 năm lịch sử vẻ vang và tôi thấy vui khi ngành đã trở thành lực lượng nòng cốt, sức mạnh mới của Bộ Khoa học và Công nghệ sau hợp nhất. Đây là sự cộng hưởng, bởi khoa học công nghệ cùng với công nghệ thông tin đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Trong công cuộc xây dựng đất nước hòa bình, độc lập, tự do, hùng cường và sánh vai với thế giới năm châu, không thể không nói đến công nghệ thông tin, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Chúng ta đã dồn hết sức mạnh của ngành bưu điện để làm cho khoa học công nghệ đất nước phát triển. Sự hòa nhập này tạo nên một sức mạnh mới, để Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình.
Phía trước sẽ còn nhiều khó khăn, thách thức. Tôi tin Bộ Khoa học và Công nghệ mới sẽ tiếp tục vượt khó khăn, tiến xa hơn trong hành trình đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia số, kinh tế số phát triển.