Giáo sư Nguyễn Anh Trí: 'Meddom ra đời để hiến tặng nhân dân' - Báo VnExpress Đời sống

- Những dự định của giáo sư để phát triển Công viên Di sản trong thời gian tới và lâu dài là gì?
- Về đầu tư, Medlatec Group vừa thông qua kế hoạch cấp kinh phí cho giai đoạn 2025-2027 để mở rộng Công viên Di sản, đẩy mạnh chuyển đổi số, sưu tầm thêm tài liệu, hiện vật. Chúng tôi cũng đang xúc tiến thủ tục công nhận một số hiện vật là bảo vật quốc gia và đề nghị Nhà nước công nhận Công viên là Công viên Di sản Quốc gia.
Một dự định đặc biệt tôi đã ấp ủ gần chục năm nay, đó là coi tro cốt cũng là một dạng di sản. Tôi mong Công viên trở thành nơi lưu giữ tro cốt của các nhà khoa học. Điều này vừa bảo vệ môi trường, dành đất đai cho thế hệ con cháu, vừa tạo nên một nghĩa trang độc đáo, trang nghiêm để tri ân, vinh danh trí thức cả đời tận hiến. Nhiều nhà khoa học ủng hộ và thậm chí háo hức với ý tưởng này.
Cách đây gần 10 năm, khi chạm tuổi 60, tôi đã viết di chúc: "Khi mất thì hỏa thiêu, rồi xin phép chính quyền rải tro cốt lên Công viên Di sản, rải khắp nơi, vào các gốc cây, không ưu tiên gì cả". Tôi hy vọng nhiều Nhà khoa học cũng sẽ tự nguyện gửi tro cốt mình về đây, như một cách trở về cùng đồng nghiệp, cùng đất nước.
- Giả sử có một ngày Meddom không còn giữ được trọn vẹn như hôm nay, điều gì ông sợ bị lãng quên nhất?
- Tôi sợ chứ. Tôi sợ ngày nào đó Meddom bị lãng quên, bị tàn phá, không còn giữ được hồn cốt hiện tại. Nghĩ đến thôi đã thấy quá đau đớn.
Điều khiến tôi day dứt nhất không phải là số tiền, công sức đã bỏ ra, mà là nỗi sợ những đóng góp, trí tuệ và máu xương của các thế hệ nhà khoa học Việt Nam cho đất nước sẽ không được gìn giữ và phát huy. Đó mới là mất mát lớn nhất.
- Theo ông cần những chính sách, cơ chế gì để vừa gìn giữ di sản trí thức quá khứ, vừa truyền cảm hứng và thực sự hỗ trợ thế hệ nhà khoa học trẻ?
- Hơn 20 năm làm Meddom, càng ngày tôi càng thấy rõ đóng góp của nhà khoa học Việt Nam vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Họ đã học hành, nghiên cứu, làm khoa học trong những điều kiện ngặt nghèo nhất - cơm chẳng đủ ăn, giấy bút không có, phòng thí nghiệm thiếu thốn - vậy mà vẫn tạo ra những công trình lớn lao, đặc biệt mang tính thực tiễn, hiệu quả và phù hợp hoàn cảnh đất nước.
Như từ thực tế người Việt hay bị giun chui vào ống mật, GS Tôn Thất Tùng đã nghiên cứu và phát triển kỹ thuật mổ gan khô. Phương pháp ấy không chỉ cứu chữa bệnh do giun sán, còn mở ra khả năng điều trị nhiều bệnh gan khác, đặc biệt ung thư. Từ một ca mổ gan phải mất 8 tiếng với hàng chục bác sĩ tham gia, giáo sư rút xuống chỉ còn 8 phút. Đó là một kỳ tích chưa từng có, đến nay y học thế giới vẫn áp dụng.
Sang các lĩnh vực khác, đặc biệt quốc phòng, trí tuệ Việt Nam càng tỏa sáng. Với kỹ thuật radar và hệ thống phòng không, quân đội đã bắn rơi "pháo đài bay" B-52 - biểu tượng của sức mạnh không quân Mỹ, từng được coi bất khả xâm phạm. Cho đến nay, Việt Nam vẫn là quốc gia duy nhất làm được điều này.
Từ những trải nghiệm ấy, tôi có niềm tin sâu sắc trí tuệ người Việt Nam có thể làm được bất cứ điều gì, ở mọi lĩnh vực khoa học. Tôi mong Đảng và Nhà nước tiếp tục tạo điều kiện để khoa học phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Nghị quyết 71 đang mở ra cơ hội rất lớn cho nhà khoa học trẻ. Nhưng cùng với đó, tôi mong có thêm những chính sách để tôn vinh, ghi nhận và đặc biệt bảo đảm đời sống xứng đáng cho các nhà khoa học.
- Theo giáo sư, sự kết nối giữa thế hệ trí thức Việt Nam trước đây và hiện nay ra sao?
- Theo tôi, mối liên hệ giữa các thế hệ khoa học là có, nhưng bền chặt đến đâu lại phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của người lãnh đạo - đó là những nhà khoa học đầu ngành. Tôi luôn nghĩ, nhà khoa học không chỉ để lại công trình, còn phải để lại các thế hệ học trò. Một người giỏi đến đâu mà không có thế hệ kế cận thì chưa thể coi là trọn vẹn.
Cái tầm của người thầy là học thật sâu, làm thật giỏi, rồi truyền lại và nâng đỡ lớp sau. Cái tài của người lãnh đạo là kết nối, tập hợp, động viên để mọi người, nhất là thế hệ trẻ, được làm việc, đóng góp.
Soi lại mình tôi thấy rất rõ điều đó. Suốt đời, tôi đã có khoảng 390 công trình khoa học, nhưng không phải một tay làm nên. May mắn của tôi là làm việc trong một tập thể đoàn kết, nơi mỗi thành công đều mang dấu ấn của nhiều bàn tay, khối óc của cả tập thể. Có những kỹ thuật, những công nghệ tôi không chỉ truyền lại cho một mà cho 3-4 học trò làm thành thạo.
Tôi tin nghĩa của sự nghiệp khoa học không phải là tiếp tục làm mãi, mà là phải tạo điều kiện để học trò làm được, thậm chí làm giỏi hơn mình. Đó mới thật sự là Di sản.