Nhảy đến nội dung
 

Dưới mắt ai mà xây nhà vẫn nhầm?

Một căn nhà không thể xây nhầm trên đất người khác chỉ trong một đêm. Nó đi qua thợ hồ, thợ sắt, qua những lần hàng xóm nhìn thấy, qua những lượt cán bộ địa phương đi tuần.

Thế nhưng ở Hải Phòng, TP.HCM, Cần Thơ, Bình Thuận, những căn nhà "đi lạc" vẫn sừng sững. Câu hỏi dư luận quan tâm sau những vụ việc này là "dưới mắt ai mà xây nhà vẫn nhầm?".

Nhìn lại các vụ việc đã xảy ra, một điểm chung hiện lên khá rõ. Đó là mốc ranh không được cắm bền vững, trích đo không bám hiện trường, ký giáp ranh còn hình thức. Đó là giấy phép rõ trên hồ sơ nhưng tọa độ ngoài thực địa chưa thật cụ thể. Đó là khâu giám sát lỏng lẻo dẫn đến những điểm dễ lệch như ranh và tim. Và quan trọng hơn cả đó là phản ứng chậm của cơ quan, của người có trách nhiệm dù cho đã có biên bản, đã có lệnh dừng nhưng không can thiệp, để công trình vẫn cứ lên tường, đổ mái, rồi dọn vào ở.

Từng nơi một đều để lại dấu hiệu của việc buông lỏng và chưa quyết liệt trong quản lý trật tự xây dựng. Ở Hải Phòng, chủ đất có sổ, phản ứng sớm, chính quyền đã yêu cầu dừng, vậy mà nhà vẫn hoàn thiện, cuối cùng tòa án buộc tháo dỡ nhà trả lại đất. Ở TP.HCM, hàng xóm thừa nhận nhầm, xin dời nhà về đúng đất rồi khất lần. Ở Cần Thơ, tòa sơ thẩm nghiêng về phương án mua lại đất và trả tiền để tránh lãng phí nhưng tòa phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm buộc tháo dỡ để trả đất đúng chủ.

Và ở Bàu Bàng, Bình Dương trước đây (nay thuộc TP.HCM), mặc dù đã có quyết định xử phạt, đã có phán quyết của tòa nhưng việc khôi phục hiện trạng vẫn rất chậm. Địa phương tiếp tục hòa giải, đồng thời nói rõ nếu không thỏa thuận, phương án cuối là tháo dỡ.

Những vụ việc ấy cho thấy vai trò của chính quyền địa phương như "người gác cổng" cho quyền lợi hợp pháp của chủ đất. Vai trò này như 3 hàng rào bảo vệ cho chủ đất. Hàng rào thứ nhất là phát hiện sớm, cắm mốc ranh cứng và bàn giao mốc có tọa độ ngay sau khi sang nhượng hoặc đo đạc. Nếu làm tốt ngay từ đây thì các tranh chấp kiểu "mua lô A, xây sang lô B" khó có thể xảy ra.

Hàng rào thứ hai là dừng ngay khi có dấu hiệu. Một thông báo dừng cần kèm thời hạn tái kiểm trong vòng từ 24 - 72 giờ. Đồng thời có chế tài rõ khi không chấp hành và triển khai phương án cắt điện, cắt nước theo quy định trong trường hợp cố tình thi công.

Hàng rào thứ ba là xử lý và cưỡng chế. Khi đã xác định vi phạm, lập hồ sơ xử phạt, biện pháp khắc phục phải triển khai kịp thời và quyết liệt. Không kéo dài, không để hòa giải trở thành tấm chăn phủ lên quyết định hành chính. Càng không để "sự đã rồi" lặp lại như một cách tạo lợi thế cho bên vi phạm.

Ba hàng rào ấy phải đi kèm trách nhiệm rõ tên, rõ việc, rõ thời gian xử lý. Địa chính, xây dựng, trật tự đô thị, công an xã, tổ dân phố… mỗi đơn vị một phần việc, một tiêu chí đánh giá. Nơi nào để xảy ra "sự đã rồi" thì phải kiểm điểm công vụ và xử lý trách nhiệm người liên quan, không nói chung chung.

Hòa giải cơ sở là quý vì giúp tháo ngòi căng thẳng, giữ gìn tình làng nghĩa xóm. Nhưng hòa giải không thể là chiếc cầu chặn đường thi hành, càng không thể là vùng đệm để vi phạm tồn tại thêm phức tạp gây bức xúc dư luận và tổn hại niềm tin vào công lý. Ngay cả khi chủ đất thiện chí đồng ý trao đổi, bù trừ thì quyền tự do định đoạt tài sản vẫn thuộc về họ. Nếu họ muốn nhận lại đất thì không ai có quyền ép họ nhận tiền thay đất.

Đích đến của một tranh chấp về đất đai chính là bản án có hiệu lực pháp luật. Và để bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của chủ đất thì ngoài bản án đúng luật, đúng tình còn cần sự quyết liệt từ cơ quan thi hành án. Cánh cửa này hay kẹt lại vì 3 lý do. Thứ nhất, trông chờ vào ý chí tự nguyện khi bên thua kiện xin khất hết đợt này đến đợt khác, còn chủ đất thì mệt mỏi. Thứ hai, lúng túng với câu chuyện bồi hoàn công trình như một lối thoát mềm nếu chủ đất không muốn, không thể ép họ đổi đất lấy tiền. Thứ ba, nguồn lực cưỡng chế mỏng, thủ tục nhiều tầng, phối hợp chưa nhuần nhuyễn. Chỉ một khâu không đồng bộ là tiến độ chậm lại.

Với chủ đất, quyền quan trọng nhất là đòi lại tài sản và yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm. Bộ luật Dân sự cho phép chủ sở hữu yêu cầu tòa án bảo vệ, đòi lại đất và bồi thường thiệt hại phát sinh. Việc xây nhầm, kể cả vô ý, thì không bao giờ làm phát sinh quyền chiếm hữu hợp pháp cho bên vi phạm. Trong thực tế chủ đất bị xây nhầm cần đi đồng thời 2 con đường là dân sự và hành chính.

Ở đường dân sự, ngay khi nộp đơn khởi kiện thì cần đề nghị tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để cấm chuyển dịch, cấm xây tiếp, cấm hoàn thiện. Yêu cầu khởi kiện sẽ gồm buộc bên vi phạm trả đất, tháo dỡ và bồi thường phần thiệt hại khách quan. Ở đường hành chính, cần gửi văn bản đến Ủy ban nhân dân, Thanh tra xây dựng… đề nghị xử phạt và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định về xây dựng và đất đai, buộc dừng thi công, buộc khôi phục nguyên trạng.

PHÁP LUẬT ĐÃ CÓ QUY ĐỊNH RÕ

Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã là bắt buộc trước khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên hòa giải để dừng sai, chứ không phải để kéo dài sai. Khi đã có bản án, cơ quan thi hành án ấn định thời hạn tự nguyện tháo dỡ và hoàn trả đất. Hết hạn mà không chấp hành thì cưỡng chế hoặc chuyển cơ quan công an xem xét khởi tố tội không chấp hành án theo điều 380 bộ luật Hình sự 2015.

Hành vi xây nhầm nhưng thực chất là lấn, chiếm đất hoặc sử dụng đất trái quy định vẫn cần được xem xét theo góc độ pháp luật hình sự. Điều 228 bộ luật Hình sự 2015 quy định người nào lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất hoặc sử dụng đất trái với quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng đất đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa xóa án tích mà còn vi phạm thì sẽ bị xem xét trách nhiệm hình sự. Cơ chế này nhằm chặn tình trạng coi phạt hành chính là chi phí rủi ro rồi tiếp tục vi phạm.

Nếu trong quá trình kiểm tra, cưỡng chế mà chống đối, cản trở người thi hành công vụ, người vi phạm có thể bị xử lý thêm theo điều 330 bộ luật Hình sự 2015. Trường hợp phá mốc ranh, hàng rào, công trình… của người khác, có thể bị xem xét xử lý theo điều 178 bộ luật Hình sự 2015 về hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, tùy giá trị thiệt hại và tình tiết tăng nặng. Các chế tài này vận hành song song với yêu cầu khắc phục hậu quả hành chính và trách nhiệm dân sự như tháo dỡ, trả đất, bồi thường.

Ở một số nước châu Âu, kiểm tra nền móng trước khi đổ bê tông là bắt buộc. Không có biên bản đạt yêu cầu, xe bê tông không được vào công trường. Điểm khóa này chặn sai vị trí ngay từ dưới đất. Nhiều thành phố châu Á yêu cầu hồ sơ định vị tọa độ gắn với giấy phép và bắt buộc xác nhận lại trước khởi công do kỹ sư đủ điều kiện thực hiện. Nếu xác nhận sai, người ký chịu trách nhiệm nghề nghiệp và bảo hiểm nghề chi trả thiệt hại. Singapore đặt nặng vai trò của kiến trúc sư, kỹ sư chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự phù hợp công trình với phê duyệt. Cơ chế này khiến "thước thợ" không thể thắng "thước luật" bởi thước luật được đặt trong tay người hành nghề gắn với trách nhiệm cụ thể.

Để tránh tái diễn hành vi xây nhầm, các địa phương có thể làm ngay những việc như (1) chuẩn hóa mốc ranh cứng và biên bản bàn giao mốc có tọa độ; (2) số hóa trích đo và gắn QR code tại hiện trường; (3) ràng buộc ký giáp ranh bằng chữ ký số kèm ảnh chụp; (4) cấp phép gắn tọa độ và bắt buộc định vị lại trước khởi công với sự chứng kiến của người có thẩm quyền; (5) kiểm tra 2 lần bắt buộc đối với móng hoặc tường; (6) thiết lập đường dây nóng 24/7 để dừng kịp thời và (7) quan trọng là xử lý nghiêm với những trường hợp để "sự đã rồi" tái diễn.

Cuối cùng, trật tự xây dựng vẫn đứng vững nhờ 3 trụ cột chính gồm quy trình đủ chặt, trách nhiệm đủ rõ và thi hành đủ mạnh. Hòa giải là để dừng sai, không phải để kéo dài sai. Bản án đúng phải được thi hành đúng. Tài sản chính đáng của ai thì trả lại cho người ấy. Không ai mong một ngôi nhà bị tháo dỡ nhưng càng không thể chấp nhận một trật tự bị bẻ cong. Kết thúc đúng đắn không chỉ là trả lại một thửa đất hay một căn nhà cho đúng chủ mà còn là giữ gìn niềm tin vào luật lệ, vào một đô thị pháp quyền để câu hỏi "dưới mắt ai mà xây nhà vẫn nhầm?" không còn lặp lại.

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn