Cuộc đoàn tụ bất ngờ giữa Hà Nội của cha con dũng sĩ - Báo VnExpress

Ông Võ Miễn (tên thật Võ Đức Dật) từng là thành viên Ban khởi nghĩa giành chính quyền ở xã Duy Mỹ, huyện Duy Xuyên (nay là xã Đại Cường, huyện Đại Lộc, Quảng Nam) trong Cách mạng Tháng 8.
Đầu năm 1955, khi con trai thứ 7 Võ Tiến Trung vừa ba tháng tuổi, ông Dật, lúc đó là Bí thư chi bộ, dẫn hơn 50 đảng viên tập kết ra Bắc. Họ là những người có nguy cơ bị địch thủ tiêu, cần rời miền Nam để tiếp tục hoạt động.
Năm 1960, kẻ thù bắt ba người vợ của anh em ông Dật, tra tấn buộc khai nơi ẩn náu của chồng và đồng đội. Khi mới 5 tuổi, cậu bé Võ Tiến Trung đã phải theo mẹ, bà Đỗ Thị Nhân, vào tù. Ở đó, cậu nhiều lần chứng kiến cảnh bà Nhân bị trói tay chân, đổ bột xà phòng hòa loãng vào miệng rồi ép tấm ván lên bụng, máu trào ra. Cậu bé gào khóc, bị lính đánh, dán băng keo vào miệng.
"Không khai thác được gì, chúng ép mẹ và các thím viết đơn ly hôn. Mẹ tôi nói: Ở quê tôi, phụ nữ bỏ chồng là hư hỏng, cha mẹ sẽ cạo đầu", thượng tướng Võ Tiến Trung, nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng Việt Nam nhớ lại.
Vì còn nhỏ, được phép đi lại giữa khu giam nam và nữ, Trung trở thành liên lạc cho các chiến sĩ cách mạng. Năm 1963, khi tù chính trị được thả, hai mẹ con trở về căn nhà lá bên sông Thu Bồn. Ngôi nhà sau đó trở thành điểm trú ẩn cho cán bộ. Người mẹ dặn: "Đây là mấy chú đi theo ba con, tuyệt đối không được nói với ai". Lần đầu, cậu bé Trung hiểu khái niệm Việt Minh, Việt Cộng và biết đâu là "phe mình".
Năm 1965, Mỹ đưa quân viễn chinh vào Việt Nam. Mới 11 tuổi, Trung là đội trưởng thiếu niên du kích bí mật xã Lộc Phước, vừa đánh địch, vừa làm công tác địch vận. Ở tuổi 14, Võ Tiến Trung được phong "dũng sĩ diệt địch" và được cử ra Bắc học văn hóa. Quê nhà còn chiến tranh ác liệt, cậu bé dũng sĩ muốn ở lại chiến đấu, nhưng được động viên đây là cơ hội "gặp Bác Hồ" và "tìm ba".
Tháng 8/1969, Võ Tiến Trung đặt chân tới miền Bắc khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yếu. Hy vọng "gặp Bác Hồ" không còn, người con chỉ mong sớm tìm được cha.
Trung được đưa về trung đoàn an dưỡng 580 ở Nam Hà. Cậu thiếu niên gửi đơn xin tìm cha, nhưng đợi mãi chưa có hồi đáp. Vài tháng sau, khi biết cậu là dũng sĩ, đơn vị cử đi kể chuyện động viên sinh viên, công nhân tại các nhà máy, trường học, rồi chuyển về số 83 Lý Nam Đế, nơi ở của anh hùng, dũng sĩ miền Nam.
Những ngày ở Hà Nội, sáng nào cậu cũng mặc quân phục, chuẩn bị lên đường. Suốt gần một tuần, Trung để ý thấy một người đàn ông đội mũ lông thường đi ngang qua, trông rất quen. Một buổi chiều, người đàn ông dừng lại hỏi: "Cháu miền Nam ra à?", cậu bé đáp "Dạ, con ở Quảng Đà". Nghe cậu thiếu niên kể rõ quê quán, tên xã, thôn, tên cha mẹ, người đàn ông bỗng vứt cặp, lao tới ôm chầm lấy, vừa khóc vừa nói: "Tám ơi! Ba đây!".
Hóa ra, ông Dật làm việc tại Bộ phận tài chính Ban Công tác miền Tây, ở số 91-93 Lý Nam Đế, được phân ở số nhà 79 Lý Nam Đế, sát nơi con sống.
Cả trạm chạy ra. Vị trạm trưởng hỏi: "Chuyện gì thế?", ông Dật nghẹn ngào: "Tôi tìm được con tôi rồi". Trung cũng khóc: "Chú ơi, con tìm thấy ba con rồi", gục đầu vào ngực cha, nước mắt giàn giụa.
Người trạm trưởng lập tức bảo quản lý lấy hết thịt bò, thịt lợn, một con gà, vốn quý hiếm lúc bấy giờ, đưa cho cha con ông Trung về mở tiệc ăn mừng. Tối đó, Trung được lệnh nghỉ ở nhà cùng cha. Ông Dật vừa dẫn con về phòng vừa khóc, vừa khoe: "Tôi tìm được con rồi!". Hàng xóm, đồng đội kéo đến, mang thêm thịt, nem, chả để chung vui.
Bước vào phòng cha, Trung thấy bức ảnh gia đình đặt trên bát hương làm từ cốc nhựa. Năm 1965, khi em trai chồng ra Bắc, bà Nhân cùng các con và cháu chụp chung một tấm hình gửi ra cho ông Dật.
Một năm sau, một thương binh từ miền Nam ra báo với ông Dật cả gia đình ông đã bị giặc giết hại. Ông dùng tấm hình vợ con làm ảnh thờ.
Nghe con út kể tình hình quê nhà, ông biết vợ và 7 người con đều tham gia cách mạng, người con gái thứ hai và cháu ruột đã mất vì bom. "Ba tôi khóc, thức cả đêm vì thương chị Ba. Sau đó, ông nhờ họa sĩ vẽ riêng ảnh chị từ tấm ảnh gia đình để thờ", ông Trung kể. Hai cha con cũng tranh thủ đi dạo bờ Hồ, chụp tấm ảnh kỷ niệm, lần đầu sau 14 năm.
Lần đi chụp ảnh ở bờ Hồ cùng cậu và cha đó, Trung xin ở lại chơi thêm nên bị lạc. Thấy đứa trẻ mặc quân phục, đeo quân hàm thượng sĩ nên bị kiểm soát quân sự kiểm tra. Cho rằng Trung lấy cắp quân hàm của phụ huynh nên yêu cầu lên xe đưa về nhà kiểm tra giấy tờ.
Sau ngày tìm được con, ông Dật vui hẳn, thường tự tay nấu cho con những món ngon. Mỗi dịp Tết, Trung và anh trai, khi đó cũng ra Bắc học, kéo bạn bè về ăn Tết cùng cha. Có năm, ông Dật phải ứng trước vài tháng lương để mua gà, làm giò, chả "đãi tụi nhỏ". Khi trưởng thành Trung mới biết từ ngày mình ra Bắc, cha luôn phải ứng lương.
Ngày đất nước thống nhất, ông Võ Đức Dật về quê đoàn tụ với vợ. Người chiến sĩ lão thành cách mạng qua đời năm 1989, vợ ông mất năm 2000.
Người con út Võ Tiến Trung theo học trường Sĩ quan Đặc công, tốt nghiệp thủ khoa năm 1978, được giữ lại giảng dạy, rồi tiếp tục học tại Học viện Lục quân, Học viện Quốc phòng, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, trở thành phó giáo sư. Ông từng giữ các chức vụ từ Trung đoàn trưởng đến Phó tư lệnh Quân khu 5.
Năm 2010, thượng tướng Võ Tiến Trung giữ cương vị giám đốc Học viện Quốc phòng. Năm 2016, ông nghỉ hưu sau 50 năm cống hiến.
Cuối tháng 7, ở tuổi 70, ông Trung vẫn cùng đồng đội đi dọc miền Trung, thăm chiến trường xưa, thắp hương trên những nấm mộ liệt sĩ, ghé thăm các đơn vị quân đội, lặng ngắm đất nước hòa bình. "Thật hạnh phúc khi thấy những hi sinh của cha chú, của mình và đồng đội góp phần vào những đổi thay hôm nay", ông nói.
Vị tướng già cũng vừa hoàn thiện cuốn hồi ký về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Nhưng ông không in đại trà, chỉ làm vài cuốn dành tặng đồng đội và con cháu, như một lời nhắc, hòa bình hôm nay được đánh đổi bằng máu và nước mắt, nên phải biết gìn giữ.
"Cuộc hội ngộ của cha con tôi là may mắn hiếm hoi giữa bom đạn và cũng là bi kịch của chiến tranh. Được sống trong hòa bình, ấm êm bên gia đình thì người trẻ hãy trân trọng từng ngày", ông nói.
Phạm Nga