Cộng điểm IELTS trong tuyển sinh: Có nên không?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, nguyên Chủ tịch Hội đồng Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, nhìn nhận không thể phủ nhận rằng tiếng Anh là năng lực quan trọng, cần thiết cho sự phát triển cá nhân và đất nước trong bối cảnh hội nhập.
Thực tế, IELTS đem lại lợi thế rõ rệt cho học sinh thành thị, có điều kiện kinh tế và tiếp cận môi trường học ngoại ngữ tốt. Nhưng những học sinh vùng sâu, vùng xa, ít có điều kiện luyện thi, sẽ bị hạn chế cơ hội xét tuyển. Điều này đi ngược lại tinh thần “công bằng trong giáo dục”.
“Loại bỏ thì không nên”
Theo ông Đức, từ khi các trường tự chủ tuyển sinh và khi chứng chỉ IELTS còn là “của hiếm”, IELTS đã được sử dụng như một phương thức xét tuyển, thậm chí ưu tiên xét tuyển thẳng vào đại học.
Nhưng qua thực tế cho thấy, IELTS chỉ là phương tiện, dù quan trọng nhưng không thể thay thế cho các kiến thức và năng lực khác, đặc biệt các nền tảng kiến thức về STEM.
Chính vì thế, không ít em có IELTS tốt nhưng trong quá trình học tập lại gặp khó khăn, nhất là với các ngành kỹ thuật, công nghệ. Hệ quả là phải bỏ học nửa chừng, chuyển trường.
“Tuy nhiên, loại bỏ hoàn toàn thì không nên. Điều này sẽ đánh mất động lực học ngoại ngữ và cắt đi một công cụ hội nhập quan trọng. Giữ nguyên, thần thánh hóa IELTS như công cụ và phương thức xét tuyển thẳng, ưu tiên xét tuyển như hiện nay cũng chưa tối ưu, vì dễ tạo ra bất bình đẳng xã hội, và không đánh giá đầy đủ năng lực của người học để học tiếp ở bậc đại học”, ông Đức nêu quan điểm.
TS Lê Anh Đức, Trưởng phòng Quản lý Đào tạo (Đại học Kinh tế Quốc dân), cho biết số lượng thí sinh thuộc diện này tăng dần qua các năm. Từ năm 2021 đến năm 2024, nhà trường tăng khoảng 5% mỗi năm cho nhóm đối tượng xét tuyển này.
“Phân tích kết quả học tập tại Đại học Kinh tế Quốc dân cũng cho thấy đây là nhóm các sinh viên có kết quả học tập tốt nhất. Các nhóm đối tượng này phù hợp với các yêu cầu đầu ra của các chương trình đào tạo của Đại học Kinh tế Quốc dân (từ yêu cầu về năng lực cốt lõi, đến kỹ năng tiếng Anh…)”, TS Lê Anh Đức lý giải về việc lựa chọn phương thức xét tuyển có sử dụng chứng chỉ quốc tế.
Ông Đức cho biết thêm chiến lược của Phòng Quản lý Đào tạo (Đại học Kinh tế Quốc dân) là tăng dần tỷ trọng các chương trình đào tạo bằng tiếng Anh có tính chất liên ngành/xuyên ngành (được giảng dạy và học tập bằng tiếng Anh) với hệ thống giáo trình, học liệu chuẩn quốc tế,… để thu hút những thí sinh xuất sắc, có đam mê, hoài bão theo đuổi ngành học mình yêu thích.
ThS Nguyễn Quang Trung, Phó trưởng Phòng Truyền thông và tuyển sinh, ĐH Thương Mại, cho biết năm 2025, với tất cả chương trình đào tạo, đặc biệt là chương trình đào tạo chuẩn, các thí sinh sẽ phải xét tuyển bằng quy đổi chứng chỉ ngoại ngữ với kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông 2 môn.
Theo ông Trung, thực tế, đối với các trường kinh tế hiện nay có yêu cầu, đòi hỏi tính thực tiễn và hội nhập quốc tế rất cao, và ngoại ngữ cũng liên quan đến chuẩn đầu ra của sinh viên, cũng là công cụ để sinh viên sau khi tốt nghiệp có thể làm việc tại doanh nghiệp trong môi trường quốc tế.
Giải pháp nào?
Theo các chuyên gia, để xét tuyển bằng IELTS thực sự trở thành động lực phát triển thay vì rào cản, Việt Nam cần có bước đi chiến lược.
Đưa ra giải pháp cho vấn đề này, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho rằng IELTS chỉ nên là một trong nhiều tiêu chí xét tuyển, và chỉ nên xem xét để thay thế cho môn ngoại ngữ trong kỳ thi THPT hoặc môn Tiếng Anh trong tổ hợp xét tuyển; chứ không nên dùng IELTS thay thế hoàn toàn cho các tổ hợp truyền thống hoặc để ưu tiên xét tuyển thẳng vào đại học.
Ông Đức cũng cho rằng trên thực tế, xã hội cũng đã nhận thức được vấn đề này và 1-2 năm gần đây, nhiều trường đại học, trong đó có ĐH Công nghệ, đã điều chỉnh như vậy.
Chứng chỉ IELTS cũng có thể được quy điểm tương đương điểm tốt nghiệp THPT cho môn Tiếng Anh; tính cộng điểm ưu tiên cho các em học các chương trình quốc tế, các chương trình giảng dạy bằng tiếng Anh.
Thầy Nguyễn Trần Bình An, ứng viên thạc sĩ ngành Ngôn ngữ học Ứng dụng tương lai tại University of York (Anh), cho rằng mục tiêu khuyến khích năng lực tiếng Anh là cần thiết trong bối cảnh hội nhập ngày nay.
Song thay vì phụ thuộc vào một chứng chỉ duy nhất với chi phí cao, chúng ta có thể áp dụng các giải pháp khác như cải thiện chương trình tiếng Anh trong trường học và đại học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ngoại ngữ, đưa ra chuẩn đầu ra ngoại ngữ cho sinh viên, khuyến khích sử dụng thêm các chứng chỉ khác như VSTEP, Cambridge, Aptis, TOEFL… có mức phí thi, phí học thấp hơn, cũng như yêu cầu thực tế và đa dạng hơn.
TS Sái Công Hồng, Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam, nhìn nhận sự gia tăng thí sinh xét tuyển đại học bằng IELTS phản ánh khát vọng hội nhập của thế hệ trẻ, cùng sự nhanh nhạy của phụ huynh và nhà trường. Song nếu không có sự điều chỉnh, xu hướng này có thể làm sâu thêm khoảng cách giáo dục và gây thất thoát ngoại tệ đáng kể.
Ông Hồng cho rằng bài toán đặt ra là giữ được tinh thần hội nhập mà không bị lệ thuộc. Cần một hệ thống đánh giá năng lực ngoại ngữ nội địa đủ tin cậy, kết hợp với chính sách hỗ trợ công bằng để IELTS trở thành lựa chọn tự nguyện, giá trị cộng thêm, chứ không phải “tấm vé bắt buộc” mở cánh cửa đại học.
Chỉ khi đó, xu hướng này mới thực sự trở thành lợi ích lâu dài cho cả người học và nền giáo dục Việt Nam.
Trước tiên, cần phát triển kỳ thi cấp chứng chỉ theo khung năng lực 6 bậc của Việt Nam đảm bảo chất lượng trở thành “kỳ thi tiếng Anh quốc gia” đạt chuẩn quốc tế, được các trường đại học trong và ngoài nước công nhận, nhằm giảm phụ thuộc vào chứng chỉ nước ngoài và giữ lại nguồn lực tài chính.
Bộ GD&ĐT nên thống nhất khung quy đổi điểm IELTS giữa các trường, giúp thí sinh có hướng đi rõ ràng và đảm bảo công bằng.
Ngoài ra, cần có chính sách hỗ trợ nhóm yếu thế là không thể thiếu, như giảm hoặc miễn lệ phí thi, tổ chức điểm thi tại địa phương và cung cấp tài liệu ôn tập miễn phí để mọi học sinh có cơ hội tiếp cận ngang nhau.
Cuối cùng, cần đẩy mạnh phát triển tài nguyên tiếng Anh nội địa từ giáo trình, ngân hàng đề đến nền tảng luyện thi do người Việt biên soạn và sở hữu bản quyền, vừa tiết kiệm chi phí, vừa phù hợp với bản sắc văn hóa - giáo dục.
“Việc xây dựng một kỳ thi 'Made in Vietnam' nếu được đầu tư đúng mức sẽ tiết kiệm ngoại tệ, gia tăng chủ quyền giáo dục và đảm bảo nội dung phù hợp với người học”, ông Hồng nêu quan điểm.
Thị trường lao động thay đổi chóng mặt, để tồn tại, con người cần học tập suốt đời. Trong bối cảnh đó, tạp chí Tri Thức - Znews giới thiệu tới độc giả cuốn Học tập suốt đời của tác giả Michelle R.Weise.
Tác phẩm cung cấp cho độc giả những đánh giá về thị trường lao động tương lai, những giải pháp cho nhu cầu vừa học vừa làm đang ngày một tăng, cùng với đó là đưa ra những cách kết nối để quá trình chuyển đổi “học-làm” diễn ra thuận lợi hơn. Từ đó, tác giả nêu lên vai trò của việc học tập suốt đời.