Mặc dù số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán tại Việt Nam đã vượt mốc 11 triệu - vượt trước cả mục tiêu đến năm 2030, nhưng quy mô vốn hóa thị trường vẫn cách mục tiêu 100% GDP của năm nay một khoảng đáng kể khi chỉ đạt khoảng 340 tỉ USD.
Theo Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu cần đạt 100% GDP vào cuối năm 2025.
Với quy mô vốn hóa thị trường chứng khoán mới chỉ đạt khoảng 70-80% GDP tính đến thời điểm hiện nay, liệu thị trường có thể "về đích" đúng lộ trình? Các nhà quản lý thị trường cần làm gì để thúc đẩy phát triển quy mô vốn hóa thị trường chứng khoán Việt Nam?
Cần khuyến khích các doanh nghiệp lớn lên sàn
Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Đỗ Bảo Ngọc, Phó tổng giám đốc Công ty chứng khoán Kiến Thiết, nói việc đặt mục tiêu về vốn hóa thị trường chứng khoán là hết sức cần thiết, bởi đây là thước đo phản ánh mức độ phát triển của thị trường tài chính.
Khi thị trường chiếm tỉ trọng càng cao trên GDP và quy mô vốn hóa càng lớn sẽ cho thấy mức độ phát triển ngày càng sâu rộng của nền tài chính quốc gia. Để đạt được quy mô vốn hóa tương đương 100% GDP, theo ông Ngọc, cần thực hiện rất nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó chính sách khuyến khích niêm yết giữ vị trí quan trọng.
Trong thực tế, theo ông Ngọc, vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp lớn, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn tư nhân đầu ngành, chưa lên sàn. Đây là những "hàng hóa tốt" mà nếu được niêm yết sẽ giúp mở rộng quy mô vốn hóa nhanh chóng.
Cũng theo ông Ngọc, vai trò của cơ quan quản lý trong việc tạo động lực cho doanh nghiệp lên sàn là yếu tố quan trọng, nhưng tăng trưởng nội tại của doanh nghiệp mới là động lực lớn cho thị trường.
Trong khi đó, ông Huỳnh Anh Huy, Giám đốc phân tích ngành của Chứng khoán Kafi, cho rằng mục tiêu vốn hóa thị trường đạt 100% GDP chỉ là vấn đề thời gian. Tuy nhiên trước khi đạt được mục tiêu đó, thị trường chứng khoán vẫn còn phải trải qua nhiều bước trong việc đổi mới và thúc đẩy quy mô.
Trong quá trình đó Việt Nam đã đạt được một số cột mốc quan trọng, gần đây nhất là việc đáp ứng chỉ tiêu nâng hạng thị trường của FTSE, mở ra cơ hội thu hút dòng tiền cũng như nâng cao mặt bằng định giá thị trường.
Theo ông Huy, trong lộ trình phát triển thị trường chứng khoán, việc hợp nhất 3 sàn giao dịch là HOSE, HNX và UPCOM cũng đang được tiến hành, điều này sẽ giúp các doanh nghiệp đạt được sự đồng bộ về tiêu chuẩn báo cáo, minh bạch, cũng như tạo điều kiện để các nhà đầu tư mới dễ dàng tham gia thị trường.
Ngoài ra cơ quan quản lý cũng đang thúc đẩy lộ trình triển khai cơ chế giúp các nhà môi giới nước ngoài có thể tham gia đặt lệnh trực tiếp trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đây là một việc cần thiết và cần được thúc đẩy sớm để thu hút dòng vốn vào thị trường Việt trước thời điểm nâng hạng chính thức.
Cần nâng chất hàng hóa, hạn chế cổ phiếu "rác"
Dù triển vọng lớn, nhưng ông Ngọc thừa nhận thị trường vẫn đối mặt với nhiều rào cản. Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vẫn còn chậm. Cấu trúc nhà đầu tư mất cân bằng, khi phần lớn giao dịch đến từ nhà đầu tư cá nhân. Điều này sẽ khiến thị trường dễ có những phiên "chao đảo" bởi tâm lý ngắn hạn, đầu cơ.
Bên cạnh đó chất lượng hàng hóa trên sàn có rất nhiều vấn đề đáng bàn, khi còn có nhiều cổ phiếu "rác". Trong khi đó việc đưa lên sàn những doanh nghiệp yếu kém không những không tạo ra giá trị mà còn làm suy giảm niềm tin của nhà đầu tư. Do đó chất lượng phải được đặt lên hàng đầu, đi cùng với cơ chế giám sát chặt chẽ hơn.
"Muốn phát triển bền vững, cần đồng thời cải thiện chất lượng doanh nghiệp niêm yết và tăng tỉ trọng nhà đầu tư tổ chức. Thị trường chỉ thực sự thu hút dòng vốn dài hạn khi các cổ phiếu niêm yết đạt chuẩn minh bạch, tài chính lành mạnh và hoạt động hiệu quả", ông Ngọc nói.
Ngoài ra, theo chuyên gia tài chính Trần Trọng Đức, Tổng giám đốc Virtus Prosperity, tỉ lệ free float (cổ phiếu tự do lưu hành trên thị trường) của nhiều doanh nghiệp lớn còn thấp, chưa tạo ra sự hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài. "Khi chỉ nắm giữ vài phần trăm cổ phần, các quỹ quốc tế gần như không có tiếng nói trong doanh nghiệp. Điều này làm giảm sức hút đầu tư", ông Đức phân tích.
Để đảm bảo tính thanh khoản và minh bạch trong quản trị, ông Đức cho rằng tỉ lệ free float trung bình nên ở mức từ 30 - 50%. Việc thúc đẩy các doanh nghiệp lớn đã lên sàn tăng tỉ lệ free float cũng sẽ giúp gia tăng mức độ hấp dẫn với các nhà đầu tư tổ chức, tác động tích cực và giúp nâng cao quy mô vốn hóa toàn thị trường.
Ngoài ra theo ông Đức, Việt Nam đang thiếu những thương vụ IPO mang tầm quốc tế. "Rất nhiều ‘ông lớn’ vẫn chưa niêm yết, trong khi đây chính là nhóm doanh nghiệp tiềm năng tạo đột phá cho thị trường", ông Đức nói và cho rằng những thương vụ bán cổ phần cho đối tác nước ngoài hoặc các quỹ quốc tế là yếu tố then chốt giúp định giá lại toàn bộ thị trường.
Trong khi đó, ông Huy cho rằng điều mà các nhà đầu tư, nhất là các tổ chức nước ngoài lớn, quan tâm đó là lượng "hàng" trên thị trường. Có rất nhiều tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp lớn vẫn chưa đại chúng hóa và niêm yết. "Làn sóng IPO từ các công ty chứng khoán lớn như TCBS, TPBS hay VPS là "phát súng" đầu tiên kích hoạt lại xu hướng niêm yết của các doanh nghiệp Việt, góp phần thúc đẩy mạnh quy mô thị trường", ông Huy nói.















