Chủ tịch VBA Phan Đức Trung: “Nghị quyết thí điểm tài sản mã hóa giúp Việt Nam định danh dòng tiền trong ‘vùng xám’, chấm dứt kiểu gọi vốn với lợi nhuận 20-30%”

Mới đây, Chính phủ đã chính thức ban hành Nghị quyết 05/2025/NQ-CP về việc thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Theo ông Phan Đức Trung, Chủ tịch Hiệp hội Blockchain và Tài sản số Việt Nam (VBA), Nghị quyết được kỳ vọng sẽ định hình sân chơi mới thị trường tài sản mã hóa và công nghệ tài chính, song cũng đặt ra nhiều câu hỏi về nhân lực, công nghệ, tính minh bạch và khả năng liên thông quốc tế.
Cơ hội để Việt Nam tìm được ‘vùng xám’ tài sản mã hóa
Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 05/2025/NQ-CP về triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Dưới góc độ Hiệp hội, ông đánh giá thế nào về cột mốc này của Việt Nam?
Tôi nghĩ đây là một nghị quyết mà thị trường cũng như cộng đồng tham gia thị trường tài sản mã hóa Việt Nam đã chờ đợi từ rất là lâu. Chúng ta cũng biết rằng là từ quý I đã có những chỉ đạo quyết liệt từ Thủ tướng Chính Phủ tới Bộ Tài chính và cho đến nay, văn bản này cũng được đánh dấu một mốc thực thi đầu tiên dưới luật. Mặc dù chúng ta đều nhìn thấy là tài sản mã hóa hay là tài sản số được công nhận ở Luật công nghiệp công nghệ số có hiệu lực từ 1/1/2026.
Tuy nhiên việc ban hành nghị quyết thí điểm về thị trường tài sản mã hóa có hiệu lực ngay cho thấy rằng là đây là một thị trường mà chính phủ cũng đặt rất nhiều trọng tâm vào tính thực thi để triển khai tại Việt Nam.
Theo ông, Nghị quyết này sẽ đem lại cơ hội gì cho Việt Nam trong tương lai?
Thứ nhất, khi pháp luật thừa nhận những môi trường cho phép gọi vốn công khai, thông qua những sản giao dịch thì các hình thức gọi vốn ở những nhóm kín với cam kết lợi nhuận 20-30% chắc chắn sẽ không còn.
Thứ hai, việc Việt Nam chấp thuận thí điểm tài sản sản mã hóa sẽ là cơ hội để chúng ta xác định các dòng chảy tài sản mã hóa trong 'vùng xám', chưa được định danh rõ ràng bấy lâu nay. Nếu khung pháp lý vận hành tốt, đây sẽ là cơ hội biến dòng chảy kinh tế ngầm thành minh bạch, đóng góp trực tiếp cho tăng trưởng. Ngược lại, nếu khung pháp lý chưa phù hợp, thì đó cũng là cơ hội để cơ quan quản lý kịp thời điều chỉnh.
Chúng ta chưa thể kỳ vọng thành công lớn ngay, nhưng Nghị quyết sẽ đặt nền móng cho một thế hệ được đào tạo bài bản. Với thị trường tài sản mã hóa, tôi nghĩ cần khoảng 3–5 năm để trưởng thành, từ phía cơ quan quản lý, doanh nghiệp đến nhà đầu tư.
Hãy nhớ những ngày đầu thị trường chứng khoán Việt Nam, với các cổ phiếu như Sông Hinh, Vĩnh Sơn, báo cáo tài chính còn sơ khai. Đến nay, hơn 20 năm sau, chúng ta vẫn đang trên hành trình nâng hạng, chuẩn mực IFRS vẫn còn xa. Thị trường tài sản mã hóa của chúng ta so với thế giới còn non trẻ hơn nhiều. Vì vậy, với Việt Nam, đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức.
Ông có thể nói rõ hơn những thách thức Việt Nam sẽ phải đối mặt?
Ở góc nhìn của Hiệp hội, việc ban hành khung pháp lý đầu tiên luôn rất khó khăn. Ngay cả những quốc gia tiên tiến, khi ban hành luật từ 2014 hay 2018, cũng gặp không ít trở ngại.
Điều lo ngại lớn nhất là vấn đề nguồn nhân lực. Khi nghị quyết ra đời, thị trường đã có hàng chục triệu người tham gia theo cách tự phát, trong khi nhiều người chưa từng hiểu biết về lĩnh vực này. Rõ ràng thị trường phát triển nhanh nhưng thiếu nền tảng. Từ góc độ Hiệp hội, rủi ro ở đây rất lớn. Hằng ngày cơ quan công an vẫn xử lý các vụ lừa đảo từ vài triệu đến hàng trăm triệu đô, cho thấy năng lực quản lý, giám sát và nhân lực hỗ trợ thị trường còn rất thiếu.
Thách thức là làm sao để xây dựng một đội ngũ đủ chuẩn, từ cơ quan quản lý đến các đơn vị cung cấp dịch vụ để có thể vận hành thị trường an toàn. Đây là điểm chúng tôi coi là khó khăn nhất.
Một thách thức khác đến từ kỳ vọng thu hút vốn quốc tế. Theo nghị quyết, việc phát hành tài sản mã hóa lần này chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Điều đó cho thấy Chính phủ muốn kéo dòng vốn ngoại vào Việt Nam.
Song, điều này đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ phải cạnh tranh toàn cầu. Vậy thách thức đặt ra là là liệu sản phẩm phát hành có đủ hấp dẫn hay không, và thị trường có tạo được một “sân chơi” với thanh khoản đủ lớn hay không. Thanh khoản là yếu tố cốt lõi trong thị trường tài sản mã hóa. Đây là những yêu cầu đòi hỏi cơ quan quản lý phải tiếp tục hoàn thiện trong suốt thời gian thí điểm.
Ngoài ra, mức độ hoàn thiện công nghệ cũng là một bài toán chúng ta cần giải quyết. Những quốc gia như Mỹ, Dubai, Hàn Quốc đã có sàn quy mô hàng chục tỷ USD, tiêu chuẩn rất cao. Dù Việt Nam có quy mô nhỏ hơn nhưng chúng ta vẫn phải đáp ứng chuẩn mực toàn cầu về bảo mật, vận hành liên tục, và đặc biệt là liên thông quốc tế.
Hiện nay có hơn 800 sàn tài sản số trên toàn cầu. Vậy Việt Nam sẽ kết nối với một sàn, vài chục sàn hay hàng trăm sàn? Nếu sàn trong nước không có tính liên thông, sẽ đặt ra câu hỏi lớn cho pháp luật và cho cả tính hấp dẫn của thị trường.
5 năm thí điểm: Tiêu chí nào để đánh giá thành công?
Nghị quyết quy định, tài sản mã hóa phải gắn với tài sản thực để đảm bảo tính minh bạch. Ông có ý kiến như thế nào về yêu cầu này?
Cách phân loại tài sản mã hóa có rất nhiều cách phân loại. Tuy nhiên Việt Nam thì sẽ tôn trọng cách phân loại theo một hướng là chia tài sản mã hóa thành hai loại. Một loại là gắn với tài sản thực (RWA). Ví dụ như là những tài sản từ đất đai, từ stable coin. Tài sản thứ hai là không gắn với tài sản thực.
Trên xu hướng toàn cầu, dự báo của BCG cho biết, RWA sẽ chiếm 10% GDP toàn cầu vào năm 2033, tương đương khoảng 18.000 tỷ USD. Điều này cho thấy rằng là chính phủ muốn định hướng thị trường tài sản mã hóa trở thành một trong những thị trường thu hút vốn và tăng tính thanh khoản cho những thị trường tính thanh khoản thấp. Đối với Việt Nam, một điều chỉnh pháp lý đáng chú ý đó là RWA của Việt Nam sẽ không liên quan đến cổ phiếu và tiền pháp định.
Trong nghị quyết, tài sản mã hóa phát hành chỉ dành cho nhà đầu tư nước ngoài. Theo ông, quy định này ảnh hưởng như thế nào tới quyền lợi của nhà đầu tư và tính hấp dẫn của thị trường Việt Nam?
Quy định này tạo ra một sự ngăn cách rõ ràng . Trong quá trình soạn thảo, Hiệp hội cũng đã trao đổi nhiều và nhận thấy điều này có cả mặt tích cực lẫn hạn chế.
Điểm tích cực là nó bảo vệ thị trường ngoại hối : nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia chỉ được giao dịch, rồi rút vốn ra dưới dạng ngoại tệ, không liên thông trực tiếp với thị trường trong nước. Điều này giúp kiểm soát dòng ngoại hối an toàn hơn.
Tuy nhiên, chính sự ngăn cách này lại làm giảm tính hấp dẫn của thị trường . Nhiều nhà đầu tư kỳ vọng Việt Nam trở thành thị trường lớn, nơi họ có thể giao dịch như nhà đầu tư trong nước. Nếu bị giới hạn, sức hút sẽ giảm đi.
Theo tôi, giai đoạn đầu thử nghiệm có thể tạm chấp nhận cách làm này để đảm bảo an toàn. Nhưng về lâu dài, chính sách chắc chắn cần điều chỉnh, sao cho cân bằng được lợi ích giữa nhà đầu tư và yêu cầu quản lý.
Một trong những điểm đáng chú ý của Nghị quyết đó là chỉ cấp phép cung cấp dịch vụ tổ chức thị trường giao dịch tài sản mã hóa với những tổ chức trong nước có vốn điều lệ tối thiểu 10.000 tỷ đồng, có sự tham gia của ngân hàng, chứng khoán, công nghệ. Ông đánh giá quy định này có ý nghĩa gì với nhà đầu tư và doanh nghiệp tham gia?
Ở nhiều nước, họ không đặt nặng vốn điều lệ mà chú trọng vào các tiêu chuẩn công nghệ, bảo hiểm và nhân sự. Ví dụ, một sàn tài sản mã hóa thường phải có bảo hiểm trung bình khoảng 230 triệu USD. Họ cũng yêu cầu chứng chỉ chuyên môn rất khắt khe, như chứng chỉ về chống rửa tiền. Chính vì nhiều tiêu chuẩn phụ như vậy nên vốn điều lệ không phải là điều kiện hàng đầu.
Còn tại Việt Nam, chúng ta phải dựa vào những doanh nghiệp có năng lực tài chính đủ lớn để đáp ứng ngay các yêu cầu về bảo hiểm và an toàn. Đây là lý do nghị quyết đặt mức vốn tối thiểu 10.000 tỷ đồng cùng điều kiện cổ đông phải có sự tham gia của ngân hàng, chứng khoán và công nghệ.
Thị trường này khác với chứng khoán. Với chứng khoán, chúng ta có 2–3 sàn tập trung làm chuẩn. Nhưng với tài sản mã hóa, Nhà nước không lập một sàn chuẩn mà cấp phép cho 5 công ty tự thiết lập “luật chơi” theo khuôn khổ quản lý. Các công ty này sẽ vừa giao dịch với nhau vừa kết nối quốc tế. Điều này khác biệt so với các thị trường khác và tất yếu đặt ra nhiều dấu hỏi trong giai đoạn thử nghiệm.
Thị trường nào cũng muốn không có giới hạn, nhưng trong giai đoạn thí điểm, việc đặt ra giới hạn là cần thiết. Doanh nghiệp nào cũng mong có cơ hội tham gia, nhưng theo đánh giá của tôi, sẽ chỉ có tối đa 3 sàn đủ năng lực vận hành hiệu quả. Bởi lẽ, với những tiêu chuẩn khắt khe hiện nay, ngay cả khi một số đơn vị được cấp phép, để thực sự triển khai mô hình kinh doanh hiệu quả, vừa phục vụ tốt nhà đầu tư, vừa tạo nguồn thu và đóng góp cho nền kinh tế, thì không hề dễ dàng.
Theo tôi, giai đoạn đầu các công ty được cấp phép phải chủ động cùng cơ quan quản lý xây dựng chuẩn mực, chứ không thể chỉ chờ hướng dẫn. Cuối cùng, một sàn muốn tồn tại phải đảm bảo ba yếu tố: đông khách, phí cạnh tranh và an toàn. Và quan trọng nhất, nếu có sự cố mất tiền thì sàn phải có khả năng bồi hoàn. Đây là áp lực bắt buộc, không thể trông chờ Nhà nước đứng ra bảo lãnh. Đây cũng chính là một điểm khác biệt cũng như là cái áp lực của công ty sẽ được cấp phép.
Để tăng tính an toàn trong việc mà triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa này, t heo ông đâu là những cái tiêu chuẩn về công nghệ và quản trị mà các doanh nghiệp hoặc là các bên muốn tham gia vào thị trường phải tuân thủ?
Chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng là nghị quyết thí điểm không có tham vọng để bao trùm hết và giải quyết tất cả mọi vấn đề. Về mặt công nghệ, Nghị quyết đặt ra quy định về về cấp độ bảo mật ở mức cao nhất, cấp độ 4. Đây là một cấp độ bảo mật rất là cao đối với sự an toàn.
Thứ hai là các tiêu chuẩn về hành nghề ví dụ như Tổng giám đốc (Giám đốc) có tối thiểu 02 năm kinh nghiệm làm việc tại bộ phận nghiệp vụ của các tổ chức trong lĩnh vực tài chính, chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm hoặc quản lý quỹ.
Giám đốc công nghệ (hoặc vị trí tương đương) có tối thiểu 05 năm kinh nghiệm làm việc tại bộ phận công nghệ thông tin của các tổ chức trong lĩnh vực tài chính, chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, quản lý quỹ hoặc doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ...
Và thậm chí là có những yêu cầu khá là khắt khe trong việc 65% cổ đông tham gia thành lập giai đoạn đầu phải là cổ đông hoạt động trong những vực như là ngân hàng, chứng khoán, các công ty công nghệ.
Với yêu cầu cao về công nghệ (hệ thống CNTT cấp độ 4, nhân sự an toàn thông tin, chứng chỉ chứng khoán), ông đánh giá khả năng doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng ra sao?
Về quản lý tài sản mã hóa, quy định bảo mật cấp độ 3, 4 hay 5 chỉ là một cách tiếp cận, không thể đảm bảo tuyệt đối an toàn – an ninh. Bản chất tài sản mã hóa được tạo ra từ private key: ai giữ private key thì có thể cất giữ an toàn, không phụ thuộc cấp độ nào.
Tuy nhiên, khi triển khai trên diện rộng, rủi ro sẽ phức tạp hơn. Các vụ tấn công thường không đến từ công nghệ Web3, mà từ lỗ hổng trong quy trình, khi con người bỏ qua một số bước kiểm soát. Đây là loại tấn công cơ bản, dù nâng cấp độ bảo mật thì vẫn có thể xảy ra, và nó không liên quan trực tiếp đến kỹ thuật.
Ở Việt Nam, yêu cầu đạt cấp độ 4 cho thấy sự nghiêm túc trong đầu tư. Với doanh nghiệp vốn 10.000 tỷ, yêu cầu này không quá khó, nhưng với công ty nhỏ thì áp lực lớn hơn. Cuối cùng, điều cần xem xét là: với toàn bộ những khoản đầu tư này, các sàn có tạo ra lợi nhuận và giá trị thực sự hay không – cả cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ lẫn cho mục tiêu huy động vốn của nền kinh tế theo định hướng của Chính phủ.
Nếu như kết thúc thời gian thí điểm 5 năm, đ âu sẽ là những yếu tố cốt lõi để đánh giá về mức độ hiệu quả hoạt động của thị trường?
Yếu tố cốt lõi để đánh giá hiệu quả sau 5 năm thí điểm là các đơn vị cung cấp dịch vụ có “sống sót” được hay không. Điều này cũng giống kinh nghiệm các nước.
Ví dụ, ở Singapore, Ngân hàng DBS sau khi được cấp phép thì tập trung phục vụ nhóm khách hàng cao cấp, duy trì hoạt động ổn định và tuân thủ luật. Trong khi đó, Coin Hako lại phát triển mạnh mẽ, rồi bán cổ phần cho đối tác Nhật. Hay như Binance, dù từng vướng pháp lý tại Mỹ, nhưng vẫn tồn tại và tiếp tục phát triển toàn cầu. Điểm chung là các đơn vị này đều vượt qua giai đoạn khó khăn ban đầu.
Điều quan trọng là các sàn được cấp phép tại Việt Nam phải chứng minh được ba điều: tuân thủ pháp luật, duy trì khách hàng và xây dựng đội ngũ vận hành. Khi họ tồn tại, cơ quan quản lý mới có dữ liệu và kinh nghiệm để viết ra một bộ luật hoàn chỉnh.
Nói cách khác, giai đoạn thí điểm này cũng chính là “thí nghiệm” để Nhà nước kiểm chứng, từ đó xây dựng luật phù hợp. Doanh nghiệp bỏ vốn 10.000 tỷ đồng, nếu sau 3 năm vẫn vận hành tốt, đóng góp thuế đầy đủ, thì sẽ nhận được sự ủng hộ và tạo tiền đề để luật hóa toàn diện.