Nhảy đến nội dung
 

'Chào tự do' - bài hát ra đời từ địa ngục Côn Đảo

Từ bóng tối của ngục tù Chí Hòa đến ánh sáng của Côn Đảo, ông đi qua mọi nỗi đau không sao kể hết. Ở kỳ trước, ông viết Tiếng hát tử tù - bài thơ ra đời giữa ranh giới sống và chết. Còn kỳ này, khi bị đày ra Côn Đảo, ông lại viết và bài hát Chào tự do - khúc hát của những người đã thắng cả tử thần.

Giọng kể của ông Lê Quang Vịnh vẫn rõ, vang, và sáng đến lạ. Mỗi lời ông nói như thắp lại trong người nghe ngọn lửa niềm tin rằng con người có thể bị xiềng thân xác, nhưng không thể giam cầm tinh thần tự do.


Ông Lê Quang Vịnh, người từng mang án tử hình, có 8 năm bị giam trong chuồng cọp, nay vẫn hát được trọn vẹn khúc ca của đời mình. Mỗi lời ông cất lên, như một nhịp đập của lịch sử còn sống.

CỬA SẮT MỞ RA LÀ ĐÒN ROI

Ông kể: "Ngày 20.7.1962, tức là tròn 11 tháng sau ngày tôi bị bắt. Ăn xong, chưa kịp uống nước thì chúng tôi đã bị lôi ra xe. Chiếc xe bít bùng hú còi inh ỏi, chạy thẳng ra cầu tàu rồi lùa chúng tôi lên tàu".

Ông Vịnh nhớ lại chuyến tàu ấy chở nhiều anh em hoạt động bí mật, công khai bị bắt, trong đó có cả những tử tù như ông. Trên tàu, cũng có một số người từng ở tù Côn Đảo nhiều năm, sau bị đưa trở lại Chí Hòa vì một lý do nào đó, giờ lại bị giải ra đảo lần nữa. "Chúng tôi hoàn toàn chưa quen biết nhau", ông nói và kể tiếp: "Nhưng không hiểu sao lại trò chuyện rất thân mật, gần như chẳng có một chút e dè nào cả".

Ông nhớ rất kỹ, ra đến nơi, họ đưa ông đến Khu Tu dưỡng, gồm 3 phòng của Trại Cộng Hòa: phòng 2, phòng 3 và phòng 4. Thời điểm ấy, phòng 4 đang tu sửa lớn, nên quản ngục tập hợp tù lại, ngoại trừ 13 án tử hình "chính trị quốc gia" giam ở phòng 3, còn lại đều bị dồn về phòng 2. "Các cánh cửa trong trại đóng ầm lại, để tù nhân trong các phòng giam không thể thấy được những gì diễn ra ngoài sân. Sau này tôi mới biết đó là cách họ đối phó với những người bị xem là nguy hiểm. Thì ra, họ đã liệt chúng tôi vào thành phần "nguy hiểm". Sau đó, họ còng chân các tử tù mới ra không thời hạn", ông kể.

Ông bị đày từ Chí Hòa ra Côn Đảo, một người đồng đội từng hát: "Vùng lên, nhân dân miền Nam anh hùng!" sau khi bị tòa án ngụy quyền Sài Gòn tuyên án tử hình. Tôi hỏi: "Khi biết bị đày ra Côn Đảo, ông nghĩ gì?". Ông cười nhẹ: "Tôi chỉ nghĩ mình sẽ sống, vì chưa xong việc. Nếu số phận cho sống, thì phải biến nơi ấy thành trường học".

Nhà tù Côn Đảo những năm 1960 là nơi giam giữ những người bị coi là "cứng đầu" nhất. Ẩm thấp, ngột ngạt, mùi mồ hôi, máu và muối hòa lẫn. "Cửa sắt mở ra là đòn roi. Ai mới đến đều bị bắt hô khẩu hiệu ủng hộ chính quyền", ông hờn căm. "Chết thì dễ. Sống mới khó. Sống để giữ niềm tin, để tổ chức, để chờ ngày đất nước đổi thay", đó là triết lý giản dị mà ông theo suốt đời, sống không phải để chịu đựng, mà để chứng minh sức mạnh của niềm tin.

VIẾT MỘT MẠCH BÀI HÁT CHÀO TỰ DO

Ông mải mê kể thời điểm ấy ở Khu Tu dưỡng, phong trào tự học văn hóa của các tù nhân lên rất cao, cả về số lượng và chất lượng. Môn toán học, nhất là phép chứng minh hình học là cơ sở của phép biện chứng; môn sử học là cơ sở của quan điểm lịch sử. Những tử tù chính trị nhìn thấy tương lai tươi sáng của sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, tự nhiên quên đi những tủi nhục tạm thời hiện tại, lăn mình vào học văn hóa mà thực chất là trau dồi bản lĩnh công tác cách mạng.

Sau thời gian bị khổ sai, ông được đưa về trại giam tập trung. Chính tại đây, các tù nhân bí mật mở lớp học, truyền nhau tin tức từ đất liền. Tôi hỏi: "Ông có bao giờ thấy tuyệt vọng?", ông nói: "Không. Vì tôi tin sẽ có ngày tự do, hòa bình sẽ lập lại". Những ngày lao động khổ sai ngoài mỏ đá, ông và anh em cùng nhau học tập.

Từ 1967 - 1975, ông bị biệt giam trong những hầm đá, chuồng bò và chuồng cọp, nơi khủng khiếp nhất của nhà tù Côn Đảo. Tôi hỏi: "Ông nghĩ gì khi họ gọi đó là địa ngục?", ông nói: "Địa ngục thật đấy. Nhưng địa ngục cũng có anh hùng. Mỗi người sống sót ở đó đều là ngọn đèn trong bóng tối".

Ngày cửa sắt bật mở. Giọng ông chùng lại, khóe mắt ông rớm lệ khi kể về buổi sáng không thể quên, ngày 1.5.1975. Ông chậm rãi kể: "Sáng hôm đó, tôi đang ở trong hầm đá, nghe xa xa có tiếng reo hò, tiếng máy bay… Tôi đứng không nổi, thì bỗng nghe bên ngoài có ai đó đập cửa, gọi lớn: Có phải Vịnh ở trong này không?". Ông ngừng lại một nhịp, đôi mắt sáng hẳn lên: "Lúc đó, tôi nghe họ gọi bằng tên, chứ không gọi là thằng. Tôi hiểu Côn Đảo đã được giải phóng".

Giọng ông bỗng nhanh hơn, dồn dập như thể ký ức ùa về: "Tôi đáp liền: "Phải, phải, phải!". Họ phá cửa vào, tháo cái còng, dìu tôi đứng dậy, nhưng chân tôi loạng choạng. Anh em ôm chầm lấy nhau, miệng cứ lặp lại: "Giải phóng rồi hả?". Ông dừng lại, giọng lắng xuống: "Khoảnh khắc ấy, không ai nói được gì nữa. Chỉ còn tiếng khóc hòa trong tiếng cười". Nửa giờ sau, ông được Ủy ban Giải phóng Côn Đảo mời ra làm việc. Trên bàn là cây bút bi và tập giấy học trò. "Tôi ngồi xuống, viết một hơi bài hát Chào tự do. Không chỉnh sửa. Không suy nghĩ. Chỉ viết bằng trái tim", ông bộc bạch.

Khi ông hát lại cho chúng tôi nghe, giọng vẫn vang, vẫn đầy. "Chào tự do…", ông cất tiếng, chậm rãi, từng chữ như ánh lửa. Giọng ông không run, mà ấm, ngân dài. Căn phòng như bỗng rộng ra, tràn đầy ánh sáng vô hình. Hát xong, ông im lặng. Một phút lặng thiêng đến nghẹn. Rồi ông nói khẽ: "Tôi không nghĩ mình còn đủ sức hát. Nhưng mỗi lần hát, tôi lại thấy anh em đã mất - họ hát cùng".

Tôi nhìn đôi bàn tay gầy, run nhẹ vì tuổi tác, và nghe ông hát, tôi thầm thán phục ông bởi lý tưởng không bao giờ gục ngã. Tôi hỏi: "Ông đã trải qua cái chết nhiều lần. Giờ đây, điều gì còn lại?". Ông mỉm cười: "Niềm tin. Đó là thứ không ai tước được. Người ta có thể xiềng thân xác, nhưng không xiềng được ý chí". Ông bảo cuộc đời ông chỉ có một con đường, một lý tưởng, một ý nguyện, không thay đổi. "Bây giờ người ta hỏi tôi: Ông tự hào điều gì nhất?, tôi nói không phải huân chương, không phải tuổi Đảng, mà là đã sống vì lẽ phải", ông mạnh mẽ.

Câu chuyện của ông Lê Quang Vịnh không chỉ là câu chuyện của một người tù chính trị, mà là bản tráng ca của một thế hệ. Ông đã hát khi bị kết án tử hình, sống trong chuồng cọp, viết bài hát trong ngày tự do và hát lại ở tuổi 89, giọng vẫn vang như buổi sớm năm xưa.

Giờ đây, nhìn mái tóc trắng, tôi thấy trong ông ánh sáng của cả một thời đại. Một người đã hiểu rõ cái chết, nên càng yêu sự sống. "Tôi đã đi qua ranh giới sinh tử. Nên giờ, chỉ còn sợ một thứ - sự thờ ơ. Tự do, nếu không giữ, sẽ lại mất", ông nói.

Sau buổi trưa gặp ông, tôi vẫn còn nhớ mãi tiếng hát vang vọng, dõng dạc của ông: "Chào tự do… tiếng reo của dân tộc trong ngày giải phóng!". Giọng ông chất chứa niềm tự hào và sự kiêu hãnh của cả một đời đã đi qua những tháng ngày gian khổ.

Một tiếng hát không chỉ của riêng ông, mà của cả dân tộc, từ địa ngục mà vươn lên, từ bóng tối mà tìm lại ánh sáng của chính mình.

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Tầng 16, Tòa nhà 54A Nguyễn Chí Thanh, Phường Láng, Thành phố Hà Nội, Việt Nam

Email: info@daisan.vn

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Tầng 16, Tòa nhà 54A Nguyễn Chí Thanh, Phường Láng, Thành phố Hà Nội, Việt Nam

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn