Bệnh tim mạch đang dịch chuyển bệnh từ 'giàu' sang 'nghèo', từ cấp tính sang mạn tính.
Bệnh tim mạch bùng phát thầm lặng
Với chủ đề "Tim mạch học trong kỷ nguyên mới: đột phá trong chẩn đoán và điều trị", hội nghị khoa học Tim mạch toàn quốc 2025 do Hội Tim mạch Việt Nam tổ chức, diễn ra trong 2 ngày 18 - 19.10, tại Hà Nội.
Theo Hội Tim mạch Việt Nam, báo cáo mới nhất (2025) về gánh nặng bệnh tim mạch toàn cầu cho biết, bệnh tim mạch đang dịch chuyển bệnh từ "giàu" sang "nghèo"; từ cấp tính sang mạn tính; nhiều yếu tố xã hội, kinh tế, môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe tim mạch.
Mỗi năm có gần 19 triệu người tử vong do bệnh tim mạch, tương đương hơn 30% tổng số ca tử vong toàn cầu, cao gấp 10 lần số người chết do Covid-19 vào đỉnh điểm đại dịch năm 2020, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong, vượt xa các nguyên nhân khác.
Trong số đó, hơn 75% số ca tử vong do bệnh tim mạch tại các quốc gia thu nhập thấp và trung bình; thiệt hại kinh tế toàn cầu ước tính hơn 1.000 tỉ USD mỗi năm, bao gồm chi phí y tế trực tiếp và tổn thất năng suất lao động. Tốc độ gia tăng nhanh chóng của bệnh tim mạch cho thấy sự bùng phát thầm lặng của một đại dịch toàn cầu bệnh không lây nhiễm.
200.000 ca tử vong/năm do bệnh tim mạch, đột quỵ
Tại Việt Nam, gánh nặng bệnh tim mạch đang gia tăng nhanh chóng. Các bệnh lý do xơ vữa động mạch hiện chiếm tới 65% tổng số ca bệnh, trong đó bệnh mạch vành và đột quỵ tiếp tục là 2 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong, với khoảng 200.000 ca tử vong mỗi năm, tương đương 1/3 tổng số ca tử vong toàn quốc.
Đánh giá về năng lực chẩn đoán các bệnh lý tim mạch, PGS-TS Phạm Mạnh Hùng, Phó chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam, cho hay nhiều đơn vị chuyên khoa tim mạch trong nước đã làm chủ các kỹ thuật cao sánh ngang tầm các nước trong khu vực, nhiều năm qua, người bệnh tim mạch Việt Nam không còn cần phải ra nước ngoài chữa bệnh.
Nhấn mạnh về xu hướng và sự cần thiết của chăm sóc sức khỏe từ "tuổi thọ" sang "thời gian khỏe mạnh", PGS-TS Phạm Mạnh Hùng cũng nêu thực trạng, nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam hiện vẫn tập trung hơn vào điều trị bệnh nhân tim mạch giai đoạn muộn, thay vì phòng ngừa bệnh.
Các chính sách y tế công cộng về chế độ ăn, kiểm soát thuốc lá, giảm muối và hoạt động thể lực còn thiếu nhất quán hoặc không được thực thi hiệu quả; khoảng cách trong giáo dục sức khỏe và thiếu niềm tin vào y tế dự phòng là rào cản lớn ở cộng đồng trong phòng ngừa bệnh tim mạch.
Trong nước, số lượng bác sĩ chuyên khoa tim mạch thực thụ còn khá ít so với nhu cầu (ước tính hiện chỉ có chưa đến 2.000 bác sĩ chuyên khoa tim mạch thực thụ trên cả nước, với hơn 100 triệu dân); cơ sở hạ tầng và trang thiết bị chưa đồng bộ và còn thiếu.