88% bệnh nhân đột quỵ Việt Nam đến viện sau 16 giờ

Thông tin được PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng, Phó Chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam, nói tại Hội nghị đột quỵ TP HCM, ngày 9/8. "Việt Nam đang làm khá tốt giai đoạn điều trị đột quỵ trong bệnh viện, nhiều trung tâm đạt chuẩn thế giới, nhưng vấn đề cấp cứu trước viện vẫn còn khoảng cách khá xa với các nước", bác sĩ Thắng cho hay.
Ông cho biết thêm cửa sổ thời gian điều trị đột quỵ trong bệnh viện của Việt Nam hiện tiệm cận chuẩn quốc tế, thực hiện được hầu hết phương pháp hàng đầu. Những kỹ thuật như tiêu sợi huyết, lấy huyết khối đường tĩnh mạch từng là điều xa xỉ ngay cả với những bệnh viện lớn đầu ngành, nay nhiều bệnh viện tuyến tỉnh đã làm rất tốt. Đến nay, cả nước có 130 trung tâm đột quỵ, tăng gấp 7 lần so với 2017. Một số trung tâm đạt chuẩn Kim cương, Bạch kim, Vàng của Hội Đột quỵ Thế giới.
Nguyên nhân chậm trễ chủ yếu gồm chủ quan với triệu chứng sớm, thiếu nhận thức về đột quỵ, vận chuyển cấp cứu chưa tối ưu. Nhiều bệnh nhân cho biết ban đầu chỉ yếu nhẹ, nghĩ sẽ tự khỏi nên chờ một đến hai ngày, đến khi triệu chứng nặng mới đi cấp cứu. Không ít người nhầm lẫn với cảm cúm, tự điều trị bằng cách đánh gió, chích máu ngón tay hoặc dùng thuốc dân gian. Hầu hết bệnh nhân tự dùng xe cá nhân thay vì gọi 115, dẫn đến di chuyển chậm hơn, đi cấp cứu đột quỵ sai nơi, đưa đến đơn vị không thể điều trị làm tốn thêm thời gian chuyển tiếp.
"Giai đoạn trước viện là khâu khó cải thiện nhất, không thể chỉ một bác sĩ, một nhóm hay một bệnh viện làm được, mà cần cả hệ thống y tế cùng tham gia", phó giáo sư Thắng nhấn mạnh.
Việt Nam hiện chưa có hệ thống paramedic (chuyên viên y tế ngoại viện) đúng nghĩa. Xe cấp cứu chủ yếu chỉ chở bệnh nhân, chưa thể điều trị ban đầu. Trong khi đó, nhiều nước đã phát triển Mobile Stroke Unit - "đơn vị đột quỵ lưu động" trên xe cứu thương, trang bị máy CT mạch máu não, kết nối telemedicine với bác sĩ chuyên khoa để chẩn đoán và tiêm thuốc tiêu sợi huyết ngay tại hiện trường, trước khi đưa bệnh nhân đến bệnh viện.
Mô hình này giúp rút ngắn đáng kể thời gian điều trị. Ở Đức và Mỹ, bệnh nhân được dùng thuốc sớm hơn 30-60 phút so với cấp cứu thông thường, cải thiện rõ tỷ lệ hồi phục. Ngay cả tại quốc gia láng giềng Việt Nam như Thái Lan, việc cấp cứu trước viện được tổ chức tốt, nhiều bệnh nhân được can thiệp trong vòng 60 phút kể từ khi khởi phát.
Lãnh đạo Hội Đột quỵ Việt Nam cho rằng việc cải thiện cấp cứu trước viện phụ thuộc lớn vào ý thức cộng đồng, người dân cần nhận biết dấu hiệu đột quỵ, gọi cấp cứu ngay thay vì chờ tự khỏi. Ngoài ra, cần đầu tư đồng bộ cho nhân lực, trang thiết bị và hạ tầng vận chuyển để thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực.
Một trong những thách thức khác của Việt Nam, theo PGS.TS.BS Mai Duy Tôn, Chủ tịch Hội Đột quỵ Hà Nội, Giám đốc Trung tâm Đột quỵ Bệnh viện Bạch Mai, là hệ thống điều trị đột quỵ phát triển nhanh trong gần 10 năm qua, song nhiều tỉnh miền núi và vùng sâu, như Cao Bằng, Lai Châu, vẫn khó triển khai. Nhiều nơi chủ yếu mới dừng ở đơn vị trong khoa thần kinh, chưa hình thành khoa hoặc trung tâm độc lập, ảnh hưởng chất lượng điều trị.
Trong khi đó, đột quỵ ở Việt Nam đang dần trẻ hóa. Độ tuổi trung bình của người bị đột quỵ tại Việt Nam là 62 - trẻ hơn khoảng 10 tuổi so với thế giới. Nhiều người còn đang độ tuổi lao động, giữ được tính mạng nhưng sau cơn đột quỵ không thể quay trở lại công việc, tạo gánh nặng lớn cho gia đình và xã hội. Hầu hết người sống sót sau đột quỵ đều bị ảnh hưởng nhiều chức năng cơ thể, tàn phế, sức khỏe suy yếu hoặc mắc các di chứng như tê liệt, cử động yếu một phần cơ thể, mất ngôn ngữ, rối loạn cảm xúc, thị giác suy giảm...
Ước tính, một trong 4 người trưởng thành trên 25 tuổi có nguy cơ mắc đột quỵ trong đời. Khoảng 90% các bệnh nhân đột quỵ đều có yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn mỡ máu, rung nhĩ, béo phì, hút thuốc lá, uống rượu bia... Để phòng ngừa đột quỵ, cần kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ. Tuy nhiên, việc tuân thủ điều trị ở Việt Nam rất hạn chế, đáng báo động. Đa số bệnh nhân có những yếu tố nguy cơ trên đều cảm thấy khỏe mạnh nên lơ là điều trị, rất ít người uống thuốc lâu dài theo chỉ định bác sĩ.
Năm 2024, Bộ Y tế ban hành hướng dẫn chẩn đoán và điều trị đột quỵ, cùng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng chuyên ngành dựa trên ba yếu tố nhân lực, chuyên môn và dịch vụ. Đột quỵ cũng được đưa vào Chương trình Mục tiêu Quốc gia chăm sóc sức khỏe dân số 2026-2035, trở thành bệnh lý ưu tiên thứ 6 (sau tăng huyết áp, đái tháo đường, ung thư, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và rối loạn tâm thần). Nhóm chuyên gia Việt Nam đã phát triển phần mềm dự báo nguy cơ đột quỵ cho người dân, ứng dụng trợ lý ảo hỗ trợ bác sĩ và hệ thống cấp cứu đột quỵ thí điểm tại các thành phố lớn.
"Mục tiêu cuối cùng là xây dựng Chương trình Quốc gia phòng chống đột quỵ với ngân sách, quy trình và hệ thống đánh giá rõ ràng, để mọi bệnh nhân trên cả nước đều được tiếp cận dịch vụ cấp cứu và điều trị chất lượng", phó giáo sư Tôn nhấn mạnh.
Lê Phương