Nhảy đến nội dung
 

Hành trình "thay áo" trên đất phù sa sau hơn 2 thập kỷ đói... lũ

(Dân trí) - Sau năm 2000, ĐBSCL trải qua cả thập kỷ "đói" lũ. Theo số liệu, dù con nước về hàng năm không chạm mức lịch sử nhưng kết hợp với triều cường lại gây thiệt hại hiện hữu ở khắp miền Tây.

Bùi ngùi nhớ mùa lũ lớn

Mùa nước nổi luôn được xem là hơi thở, là mạch sống tự nhiên tại ĐBSCL, mở ra chu kỳ tái sinh thường niên cho đất đai.

Vào khoảng trung tuần tháng sáu âm lịch, khi con nước ròng bắt đầu thấp thoáng nơi mé sông, trong không khí mát mẻ liu riu, người dân vùng châu thổ đã rục rịch chuẩn bị ngư cụ. Năm nhuận này, với hai tháng sáu liên tiếp, dân đồng bằng như được ban thêm khoảng lặng để thong thả đón con nước về.

Đúng hẹn, con nước rằm tháng bảy dâng lên một cách chậm rãi, mang theo lượng phù sa quý giá bồi đắp cho đất đai, rửa trôi phèn mặn và mở đường cho tôm cá từ thượng nguồn trở về. Sinh khí ấy len lỏi, đánh thức đám rau dại ngủ quên bừng tỉnh. Dòng nước ấy, cứ thế, đã trở thành niềm tự hào bao đời nay của vùng đất Chín Rồng.

Ông Sáu, người đã hơn 50 năm gắn bó với nghề hạ bạc ở vùng đầu nguồn, là một chứng nhân sống của những thăng trầm cùng con nước. Cuộc đời mưu sinh trên chiếc bè mỏng manh sát dòng Vĩnh Nguơn trên sông Hậu vẫn còn in đậm trong tâm trí ông. Nhất là kỷ niệm về những năm lũ về dạt dào. 

Đó là một ngày đầu tháng tám năm Ất Mùi (2015). Sau bữa cơm chiều, khi đang liu thiu trên chiếc võng, ông Sáu bất chợt nhìn thấy một đàn cá nhỏ ngoi đầu, lúc nhúc quấn quýt sát bè. Ông ném vài hạt cơm xuống và thích thú ngắm đàn cá bu đến ngày càng đông. Thấy hiện tượng lạ, ông thử cho cá ăn thêm.

Điều kỳ diệu là sau 2 tuần, đàn cá vẫn quyến luyến không chịu rời đi. Thương cảm, ông và vợ quyết định chăm sóc, cho "đàn con bất đắc dĩ" ăn ba cữ mỗi ngày như những thành viên trong nhà, với thức ăn xin được hằng ngày từ cơm nguội, bắp chuối tới rau muống héo.

Chuyện về những đàn cá "xin ở nhờ" nhà bè của người dân dọc sông Hậu (An Giang) khi mùa nước nổi về không phải là chuyện hiếm. 

Đàn cá cứ thế xem bè của ông Sáu là bến đỗ để nương náu, tụ về sinh sản từ hàng trăm rồi đến hàng nghìn con. Chúng chính là minh chứng sinh động cho sự trù phú và hào phóng một thời của sông Hậu.

Tuy nhiên, qua những năm bão dữ và sự biến đổi của khí hậu, đàn cá thưa dần cho đến hiện tại chỉ còn lác đác vài con.

Những đàn cá "xin ở nhờ" tương tự chuyện nhà ông Sáu không phải là điều hiếm thấy ở miền Tây vào mùa nước nổi. Chúng trở thành những câu chuyện được kể rải rác từ dọc sông Hậu, qua An Giang, Long Xuyên rồi đến Cần Thơ. Theo lời ông Sáu, cứ 10 nhà làm bè cá thì có ít nhất 1 nhà từng trải qua những kỷ niệm như thế.

Vùng sông nước từng trù phú là vậy nhưng cách đây hai mươi lăm năm trở thành nỗi ám ảnh. Trận lũ lịch sử năm 2000, nước dâng cao qua ngọn cây đến nay vẫn là vết hằn sâu trong tâm thức người dân, khiến họ phải thay đổi tận gốc rễ từ tư duy sản xuất đến tập quán sinh sống. Và sự thay đổi mang tính bước ngoặt đầu tiên, theo phân tích của Thạc sĩ Trương Chí Hùng, Giảng viên Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang - Đại học Quốc gia TPHCM, bắt đầu từ chính tên gọi.

Khi cánh đồng không còn "đón" lũ

Thạc sĩ Hùng nhận định: “Trong văn hóa truyền thống, hiện tượng nước dâng ở Miền Tây không gọi là "lũ" - một khái niệm thường gắn liền với sự bộc phát, tàn bạo như ở miền Trung. Ngược lại, đó là "mùa nước nổi" - một món quà, một sự kiện tái tạo sinh thái mà trời ban cho riêng miền Tây.

Sự thay đổi của dòng chảy buộc người dân phải thích nghi được dùng từ "lũ" để miêu tả hình thái con nước. Thay vì tiếp tục thuận thiên, sống hòa hợp theo tự nhiên như trước, người miền Tây phải bước vào cuộc chiến đối phó, thậm chí chống lại dòng nước.

Năm 2000, đỉnh lũ tại Tân Châu (trạm đầu nguồn, ở Châu Đốc, An Giang) đạt 5,06m vượt mức báo động 3, nước phân tán rộng khắp cánh đồng. Còn lũ năm 2025, đỉnh tại trạm này theo dự báo cao nhất cũng chỉ khoảng 3,9-4m. Đây không phải là trận lũ lịch sử trong vòng 2,5 thập kỷ. Nhưng từ trong con nước, người ta cũng nhận thấy sự giảm sút trầm trọng của phù sa và tôm cá. 

Sự vắng bóng của thủy sản gây ra một cuộc khủng hoảng sinh kế đa chiều. Không thể mưu sinh theo cách truyền thống, người dân phải tiếp tục chuyển sang độc canh cây lúa 3 vụ, làm gia tăng áp lực sản xuất thâm canh. 

"Lượng cá tôm chẳng còn dồi dào để người dân có thể đánh bắt thỏa thích và đó không còn là nghề để người dân có thể mưu sinh, buộc họ phải làm việc khác", ông Hùng nói.

Ông Hùng nhớ lại, thời điểm ấy, người dân manh nha thâm canh lúa vụ 3 và để bảo vệ vụ Thu Đông khỏi dòng nước nổi, tuyến đê bao kiên cố đã được xây dựng, tạo ra các khu vực sản xuất khép kín. 

Việc xây dựng đê bao theo ThS Hùng, như lời từ chối khéo với con nước. Đất đai bị giảm sụt trầm trọng nguồn dinh dưỡng tự nhiên quý giá là phù sa bồi đắp, lại phải gồng mình cõng mùa vụ liên tục, không có thời gian nghỉ ngơi, dẫn đến tình trạng chai kiệt và phụ thuộc lớn vào phân bón hóa học. Sự kiệt sức của đất làm giảm khả năng chống chịu tự nhiên vốn có. 

Men theo những tuyến kênh chằng chịt, uốn lượn ở xã Đá Bạc (tỉnh Cà Mau) thời điểm này, bức tranh đồng quê cuối mùa nước nổi hiện lên là những cánh đồng no nước. Con đường nông thôn, vốn là huyết mạch vận chuyển nông sản giờ đây bị nước chia cắt, trở thành dải đất với chi chít những đoạn băng keo đỏ, biển cảnh báo sụp lún. 

Loay hoay tìm đường đưa máy cắt vào ruộng, một lão nông than trời: "Oải quá, kiểu này chắc chờ thêm mấy bữa cho nước rút". 

Nghe tiếng than của hàng xóm, bà Nguyễn Kim Khen (Cà Mau) cũng thở dài: "Bây giờ đường hư, máy cắt vào không được, chúng tôi phải cắt tay rồi chở ra từng dạ thôi chứ biết tính sao". 

Một tháng trước, tỉnh lộ rộng 3m trước cửa nhà bà Khen bung khỏi mặt đất rồi nứt toang, đổ nghiêng xuống sông, tạo ra một rãnh sâu hút trên mặt đường. Sụt lún, sạt lở bủa vây ngay mùa thu hoạch, người dân rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Muốn đưa lúa ra điểm tập kết phải giảm giá bán cho thương lái, cứ như thế lúa bị đẩy xuống dưới mức 7.000 đồng/kg.

Thu nhập của những người tạo ra kỳ tích cho nền nông nghiệp Việt Nam trở nên bấp bênh trước thiên nhiên dù họ sẵn sàng mang mùng ra đồng để giữ lúa. 

Khu vực đô thị như TP Cần Thơ cũng không khá khẩm hơn khi báo chí liên tục đưa tin cảnh tượng ngập úng được mô tả là "chưa từng thấy" hay "vượt mức lịch sử". 

Đọc và trầm ngâm với các bản tin về triều cường, ngập úng, ThS Trương Chí Hùng phân tích: "Khi nước không được phân tán vào đồng mà bị dồn nén ra sông, nguy cơ ngập úng không mất đi mà lại chuyển sang các khu vực đô thị và dân cư, khiến Miền Tây phải chịu cả tình trạng ngập lụt cục bộ lẫn hạn hán kéo dài", 

Hệ lụy nghiêm trọng nhất của việc chặn nước theo quan điểm của ông Hùng là làm mất đi cơ chế tự bảo vệ trước xâm nhập mặn. Trong khi đó, nước nổi là nguồn nước ngọt khổng lồ cuối cùng trong năm, có nhiệm vụ đẩy lùi nước mặn từ biển Đông và biển Tây xâm nhập.

Khi Miền Tây từ chối đón nước vào đồng, đồng thời các công trình thượng nguồn lại điều tiết thất thường, lượng nước ngọt cuối cùng này không còn đủ để tạo áp lực đẩy mặn hiệu quả. Điều này đồng nghĩa với việc trong mùa khô, ranh giới mặn có thể xâm nhập sâu hơn vào nội đồng, đe dọa trực tiếp đến lúa Hè Thu và các vườn cây ăn trái có giá trị cao. 

"Hơn thế nữa, sự thất thường của thủy văn, kết hợp với triều cường đã làm xáo trộn tập quán sản xuất, kéo theo các vấn đề văn hóa, định cư của người dân. Khi mô hình sống thuận theo nước bị phá vỡ, người dân phải thay đổi nơi ở, cách xây dựng nhà cửa, khiến Miền Tây mất đi bản sắc sông nước truyền thống, dẫn đến những hệ lụy sâu sắc về mặt văn hóa và xã hội", theo ThS Hùng. 

Sụp lún bủa vây miền Tây, nhiều căn nhà bị dòng nước "nuốt chửng". 

Năm trụ cột kỹ thuật "giải cứu" đồng bằng

Trao đổi với phóng viên Dân trí, Thạc sĩ Kỷ Quang Vinh, nguyên Chánh Văn phòng Phòng Công tác biến đổi khí hậu TP Cần Thơ, cho rằng biến đổi khí hậu ở ĐBSCL ngày càng nặng nề hơn. Ở nơi sông Mekong chảy vào Việt Nam, mực nước vào mùa nước nổi hiện thường xuyên thấp hơn trước, ngược lại vùng gần biển đỉnh triều của năm lại tăng cao, gây ngập lụt ngày càng sâu cho vùng này.

“Năm nay 2025, đỉnh triều vào mùa nước nổi tại Trạm Cần Thơ dâng cao 2,35m, phá kỷ lục lịch sử năm 2015 là 2,15m. Trong 15 năm, đỉnh triều đã cao hơn 20cm”, Thạc sĩ Vinh nhận xét.

Theo ông Vinh, đúng với dự báo của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC), lượng mưa trên lưu vực ngày càng giảm và ảnh hưởng của việc tích nước cho các đập thủy điện trên thượng nguồn Mekong nên ở vùng Tân Châu, Châu Đốc sự xuất hiện mùa nước nổi ngày càng hiếm, lượng phù sa về hạ nguồn giảm hơn 40%.

ĐBSCL là một trong những vựa lúa lớn nhất thế giới, đang đứng trước một nghịch lý thủy văn báo động: mực nước đầu nguồn giảm sâu nhưng mực nước hạ nguồn, đặc biệt tại các đô thị như Cần Thơ lại liên tục phá kỷ lục.

“Không có mùa nước nổi hay nước nổi không nhiều làm giảm nguồn lợi thủy sản. Nước ít, phù sa giảm thiểu làm cho bồi đấp tự nhiên không còn. Đất lún do tự nhiên và đất lún do sử dụng không bền vững nước ngầm làm ĐBSCL ngày càng lún sâu. Đất lún không đều làm sạt lở bờ sông, biển, sụt lún mặt đường, nhà cửa. Tất cả làm cho sinh kế, sinh hoạt, phát triển kinh tế, hoạt động giao thông bị trở ngại gây khó khăn chồng chất cho cuộc sống của dân cư tại chỗ”, Thạc sĩ Vinh phân tích rộng thêm về những thách thức miền Tây đang đối mặt.

Theo ông Vinh, trong bối cảnh ĐBSCL bị tác động mạnh nhất của biến đổi khí hậu, việc thực hiện các hoạt động thích ứng triệt để là hướng đi cần thiết của chính quyền và cư dân ĐSBCL.

Ông đề xuất một hệ thống giải pháp kỹ thuật toàn diện, xoay quanh năm “trụ cột” chiến lược.

Trụ cột trước tiên là việc quản lý và dự trữ nước. Theo ông Vinh, trong lũ, việc trữ nước phải ưu tiên hàng đầu. Chính quyền cần phải nghiên cứu các phương án trữ nước lại trên các vùng trũng tự nhiên khổng lồ như Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên. Nước lũ dư thừa có thể sử dụng cho mùa khô hạn khắc nghiệt và chống chọi với xâm nhập mặn. Từng hộ gia đình cũng cần được khuyến khích tối đa việc xây dựng các công trình trữ nước uống, nước mưa để đảm bảo nguồn sinh hoạt.

Trụ cột thứ hai là giải pháp mang tính đột phá về phục hồi địa chất và nguồn nước ngầm. Tình trạng lún đất do khai thác nước ngầm đang làm trầm trọng thêm nguy cơ ngập lụt.

Thạc sĩ Vinh đề xuất một lộ trình dứt khoát ngừng sử dụng nước ngầm. Quan trọng hơn, cần nghiên cứu kỹ thuật làm sạch nguồn nước mưa hoặc nước dư thừa trong mùa lũ để bơm ngược trở lại tầng chứa nước ngầm. Hoạt động tái tạo này không chỉ giảm thiểu được hiện tượng lún đất mà về lâu dài, còn có tiềm năng nâng cao mặt đất sau nhiều năm, đồng thời tạo ra một nguồn nước chiến lược bền vững cho tương lai.

Đối phó với ngập lụt, trụ cột thứ ba là chiến lược chống ngập chủ động và bảo vệ đô thị. Nguồn nước gây ngập chủ yếu đến từ thượng nguồn sông Mekong và triều cường từ Biển Đông. Vì vậy, giải pháp cần thiết là nghiên cứu xây dựng đê bao cho từng khu vực kinh tế có giá trị cao trước, tiến tới lập đê bao toàn vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, đê bao chỉ giải quyết được nước từ bên ngoài.

Thạc sĩ Vinh lưu ý, giải pháp phải song hành với việc xây dựng một hệ thống thủy lợi thoát nước hoàn chỉnh cho mưa tại chỗ là sử dụng các trạm bơm đủ công suất để giải quyết triệt để tình trạng úng ngập nội đồng và đô thị.

Bên cạnh các giải pháp thủy lợi và địa chất, ông Vinh cũng gợi ý tập trung vào hai yếu tố thích ứng khác.

Trụ cột thứ tư liên quan đến quy hoạch đô thị để thích ứng với nắng nóng, đòi hỏi việc thiết kế khu dân cư phải tận dụng được hướng gió để tăng cường đối lưu không khí, kết hợp với việc tăng cường mật độ cây xanh, với mật độ cao ít nhất là 10m2/người, tốt nhất là trên 30m2/người.

Cuối cùng, trụ cột thứ năm là thích ứng sinh kế, nhấn mạnh sự đa dạng và chi tiết của các giải pháp cần được nghiên cứu cụ thể, “đo ni đóng giày” cho từng địa phương, từng trường hợp để đảm bảo hiệu quả và tính bền vững lâu dài.

Tựu trung lại, đó là sự can thiệp kỹ thuật chủ động, một chiến lược lấy kỹ thuật làm mũi nhọn để bảo vệ ĐBSCL. Đó là một tầm nhìn không chấp nhận đầu hàng trước biến đổi, mà thay vào đó, sử dụng khoa học để "đảo ngược" các nguy cơ, giúp vùng đất này thích nghi và "sống khỏe" trong tương lai.

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: info@daisan.vn

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn