Nhảy đến nội dung
 

Hàng giả lộng hành, bịt ngay lỗ hổng

Hàng giả là thực phẩm, trong đó có đường dây sản xuất và buôn bán sữa giả vừa bị công an triệt phá, gây bức xúc dư luận. Câu hỏi đặt ra là pháp luật quy định thế nào mà để hàng giả lộng hành như thời gian qua?

Hai bệnh viện là Bệnh viện Trung ương quân đội 108 và Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Kạn đã thông tin về việc hai loại sữa do các công ty này sản xuất đã trúng thầu vào bệnh viện và đã tư vấn cho bệnh nhân sử dụng suốt thời gian qua.

Sữa giả vào bệnh viện dù đấu thầu "đúng quy định"

Cả hai bệnh viện đều khẳng định "sản phẩm này được đưa vào sử dụng sau quá trình đấu thầu đúng quy định pháp luật".

Theo bác sĩ Nguyễn Huy Hoàng (Trung tâm oxy cao áp Việt - Nga, Bộ Quốc phòng), từ câu chuyện sữa của công ty sản xuất sữa giả xuất hiện từ thị trường đến bệnh viện đã cho thấy những lỗ hổng.

Các sản phẩm được quảng cáo rầm rộ với "thành phần quý hiếm" như tổ yến và đông trùng hạ thảo, nhưng khi kiểm nghiệm lại cho thấy hoàn toàn không có. Hàm lượng dinh dưỡng thực tế dưới 70% - đủ cơ sở xác định là hàng giả theo pháp luật Việt Nam.

"Đặc biệt nguy hiểm là việc những sản phẩm này được đưa vào bệnh viện qua kênh đấu thầu hợp pháp, chứng tỏ mạng lưới sản xuất - tiếp thị - hợp thức hóa giấy tờ đã hoạt động cực kỳ bài bản và qua mặt được nhiều khâu giám sát.

Qua "sự cố này", có thể thấy việc tuân thủ quy trình đấu thầu không đồng nghĩa với đảm bảo chất lượng. Một sản phẩm kém chất lượng vẫn có thể trúng thầu nếu hồ sơ kỹ thuật chỉ là hình thức. Nhà thầu được xét duyệt chủ yếu trên giấy tờ, không có kiểm tra thực tế năng lực. Không có kiểm định chất lượng lô hàng sau khi trúng thầu.

Thực tế quy trình nhập hàng chủ yếu dựa vào số lượng, hạn sử dụng, tem nhãn, chứ chưa có hệ thống kiểm nghiệm độc lập, nhất là với các sản phẩm "ngoài danh mục bảo hiểm y tế" mà người bệnh tự chi trả", bác sĩ Hoàng nhận định.

Bệnh viện có phải kiểm nghiệm sau khi nhập hàng?

Theo bác sĩ Nguyễn Huy Hoàng, sau sự việc lần này, cần thiết phải thiết lập quy trình kiểm nghiệm sau nhập hàng, trước khi sử dụng cho bệnh nhân. Đồng thời tăng vai trò hội đồng thuốc và điều trị trong việc xét duyệt sản phẩm. Xây dựng hệ thống cảnh báo nội bộ, tiếp nhận nghi ngờ từ y bác sĩ và người bệnh, rà soát đánh giá lại toàn bộ nhà cung cấp.

Bên cạnh đó, đối với cơ quan quản lý nhà nước, phân định rõ trách nhiệm giữa các bộ trong quản lý dinh dưỡng y học và thực phẩm chức năng. Tăng cường hậu kiểm, thanh tra định kỳ và công khai kết quả; ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc sản phẩm tại bệnh viện và nhà thuốc.

Còn ông Đào Xuân Cơ, giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, cho rằng bệnh viện không có chức năng kiểm nghiệm hàng hóa, đòi hỏi các cơ quan chức năng cần kiểm tra chất lượng hàng hóa, từ khâu nhập khẩu, sản xuất đến lưu hành phải đảm bảo. Để khi hàng hóa đến bệnh viện, bác sĩ và bệnh nhân được yên tâm sử dụng.

Ngoài ra, người đứng đầu đơn vị cũng phải "liêm khiết" để không bị doanh nghiệp mua chuộc, từ đó những hàng kém chất lượng, hàng giả được chiết khấu cao không thể lọt vào bệnh viện.

"Trong thực tế, người bệnh phải chịu thêm gánh nặng liên quan đến thực phẩm chức năng. Tâm lý của người bệnh là bác sĩ kê gì thì người bệnh thường phải cố mua nấy", ông Cơ nói.

Theo ông Cơ, tại Bệnh viện Bạch Mai quy định bác sĩ không kê đơn và tư vấn thực phẩm chức năng, nhà thuốc trong bệnh viện không bán thực phẩm chức năng.

"Điều này đã được thực hiện tại bệnh viện 3 năm nay. Trong điều trị bệnh, phương pháp điều trị và thuốc là yếu tố then chốt. Bác sĩ có thể tư vấn thêm về dinh dưỡng hằng ngày bổ trợ cho người bệnh.

Việc kê thêm thực phẩm chức năng sẽ tăng gánh nặng về chi phí cho bệnh nhân, trong khi hiệu quả chưa rõ ràng", ông Cơ cho hay.

"Lỗ hổng" nghị định 15

Theo các chi cục an toàn thực phẩm (ATTP), các sản phẩm dinh dưỡng được thực hiện theo quy định của nghị định 15 là nộp hồ sơ công bố và tự công bố sản phẩm. Các cơ sở chỉ phải nộp phiếu kiểm nghiệm các chỉ tiêu an toàn do Bộ Y tế ban hành theo nguyên tắc quản lý rủi ro.

Nghị định không yêu cầu các phiếu kiểm nghiệm về chỉ tiêu chất lượng. Điều này cũng dẫn đến thực trạng doanh nghiệp không làm kiểm nghiệm chỉ tiêu chất lượng sản phẩm khi nộp hồ sơ, do không bắt buộc.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Vũ Đức Toàn, trưởng phòng thanh tra - nghiệp vụ Chi cục ATTP tỉnh Hòa Bình, cho hay việc hậu kiểm các sản phẩm dựa trên "yếu tố nguy cơ". Trong khi đó, các sản phẩm này đăng ký công bố tại địa phương nhưng không có sản phẩm ở địa phương, chi cục cũng không nhận được phản ảnh của người dân nên không hậu kiểm sản phẩm.

Còn tại Hà Nội, mặc dù năm 2023 đoàn kiểm tra đã lấy mẫu ngẫu nhiên theo xác suất các sản phẩm ở trong kho: 4 mẫu của Rance Pharma và 1 mẫu của Hacofood.

Tuy nhiên, công tác hậu kiểm căn cứ theo hướng dẫn của nghị định 15, kiểm tra những yếu tố nào ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của người dân, cụ thể là các chỉ tiêu an toàn. Vì vậy, trong lần kiểm tra này, kết quả kiểm nghiệm của các mẫu đều đạt các chỉ tiêu an toàn.

Có thể thấy việc hậu kiểm hiện nay, quản lý chất lượng thực phẩm chỉ tập trung kiểm soát chỉ tiêu an toàn (chỉ tiêu vi sinh và kim loại nặng) từ tiền kiểm đến hậu kiểm và ngăn ngừa mối nguy (kiểm nghiệm ngăn ngừa hành vi đưa chất cấm sử dụng trong thực phẩm) tại khâu hậu kiểm.

Trong đánh giá tác động nghị định 15 của Cục ATTP cũng thừa nhận mặc dù vậy công tác hậu kiểm vẫn được duy trì, nhưng công tác thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm an toàn thực phẩm mới chỉ đáp ứng một phần yêu cầu thực tế.

Bên cạnh đó, theo quy định hiện nay, hậu kiểm cũng có quy định riêng, không phải "lúc nào cũng được" mà phải có kế hoạch.

Hậu kiểm thường được thực hiện theo kế hoạch hằng năm; sẽ kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm, khiếu nại, phản ánh của người tiêu dùng hoặc theo yêu cầu của công tác thanh tra kiểm tra chuyên đề, theo quyết định đột xuất của cơ quan có thẩm quyền.

Nghị định 15 sau 7 năm thực hiện đã bộc lộ nhiều lỗ hổng trong việc quản lý sản phẩm tự công bố, nộp hồ sơ công bố.