Theo chuyên gia, việc mở rộng quy mô đầu tư toàn xã hội không thể tách rời yêu cầu cải thiện hiệu quả sử dụng vốn, tăng huy động tiền trong dân, thay vì phụ thuộc quá nhiều vào vốn tín dụng...
Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đã đề ra mục tiêu "phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân cho giai đoạn 2026 - 2030 từ 10%/năm trở lên".
Trao đổi với Tuổi Trẻ, chuyên gia kinh tế Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Vietnam - cho rằng để đạt mục tiêu tăng trưởng 2 con số, tỉ lệ đầu tư trên GDP cần vượt ngưỡng 40% là cần thiết nhằm gia tăng năng lực huy động nguồn lực.
Tuy nhiên, việc mở rộng quy mô đầu tư không thể tách rời yêu cầu cải thiện hiệu quả sử dụng vốn, bảo đảm cân đối tài chính và thúc đẩy phát triển thị trường vốn nội địa.
Trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển đổi mô hình tăng trưởng, việc dựa quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư có thể tạo ra những rủi ro lớn cho hệ thống tài chính, bao gồm cả tài chính công và khu vực ngân hàng.
Giảm lệ thuộc vốn tín dụng, tăng hiệu quả sử dụng vốn
Theo chuyên gia Lê Duy Bình, mục tiêu tăng tổng đầu tư xã hội lên 40% chỉ thực sự có ý nghĩa khi đi kèm với cải thiện chỉ số ICOR - tức hệ số hiệu quả sử dụng vốn.
Một đồng vốn đầu tư tăng thêm mà tạo ra nhiều hơn sản lượng và nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế rõ ràng sẽ tốt hơn nhiều so với việc đầu tư ồ ạt nhưng hiệu quả thấp hay không có sự cải thiện đáng kể về hiệu quả.
Cải thiện ICOR đồng thời với việc tăng năng suất tổng hợp (TFP) và năng suất lao động chính là điều kiện để tăng trưởng đạt chất lượng cao, bền vững, tránh rơi vào bẫy "tăng lượng vốn mà không tăng hiệu quả".
Cùng với đó, tăng đầu tư không thể chỉ trông vào tín dụng ngân hàng hay ngân sách nhà nước. Việt Nam hiện có tỉ lệ tín dụng trên GDP ở mức khoảng 155%, cao hơn đáng kể so với thông lệ quốc tế.
Nếu tiếp tục mở rộng tín dụng để đáp ứng nhu cầu đầu tư, nền kinh tế có thể đối mặt với nguy cơ mất cân đối, nợ xấu gia tăng và những rủi ro về kinh tế vĩ mô. Nhiều tổ chức tài chính quốc tế cũng khuyến cáo chúng ta về điều đó.
Đầu tư công tăng mạnh cũng tạo sức ép lớn lên ngân sách, kéo theo rủi ro phải tăng thuế hoặc cắt giảm chi tiêu ở các lĩnh vực khác. Vì vậy, chính sách đầu tư cần được thiết kế thận trọng, bảo đảm hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng và an toàn tài chính quốc gia.
Để đạt được mục tiêu 40% tổng đầu tư xã hội, cấu trúc nguồn vốn đầu tư phải được tái cấu trúc mạnh mẽ, trong đó khu vực tư nhân cần trở thành trụ cột chính.
Như vậy, nguồn vốn cho phát triển không thể chỉ đến từ ngân sách nhà nước, doanh nghiệp nhà nước và các chủ thể khác thuộc khu vực nhà nước mà cần phải đến từ khu vực tư nhân, các doanh nghiệp, người dân và các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Việc khơi thông các dòng vốn tư nhân sẽ giúp nền kinh tế giảm phụ thuộc vào ngân hàng, tăng sức chống chịu và tạo ra hiệu ứng lan tỏa tích cực.
Muốn vậy, Việt Nam cần phát triển các kênh huy động vốn dài hạn và bền vững như tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi để khuyến khích khu vực tư nhân bỏ vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển thị trường tài chính thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, hình thành các sản phẩm tài chính mới, hấp dẫn phù hợp như trái phiếu hạ tầng cho các công trình trọng điểm quốc gia như đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, các tuyến đường sắt, cảng biển, sân bay trọng yếu, khai thác các cơ chế đặc thù vượt trội như phát triển đô thị theo định hướng giao thông (TOD), vận dụng tối đa cơ chế hợp tác đầu tư theo hình thức hợp tác công tư (PPP).
Thúc đẩy trái phiếu hạ tầng, huy động tiền trong dân
Ngoài ra, ông Bình cho biết một trong những giải pháp mang tính đột phá là phát triển thị trường trái phiếu công trình, trái phiếu hạ tầng. Những dự án hạ tầng lớn như đường sắt cao tốc Bắc - Nam, cao tốc Bắc - Nam phía Đông hay các tuyến metro đô thị đòi hỏi nguồn vốn rất lớn, vượt xa khả năng đáp ứng của ngân sách và vốn vay ngắn hạn từ hệ thống ngân hàng.
Vì vậy, việc huy động vốn thông qua kênh trái phiếu hạ tầng là con đường khả thi và cần thiết. Tuy nhiên, để công cụ này thực sự hiệu quả, cần đảm bảo hai điều kiện cốt lõi.
Thứ nhất, trái phiếu phải có lãi suất đủ hấp dẫn, cao hơn hoặc ít nhất ngang bằng mức lãi suất tiền gửi trung - dài hạn của các ngân hàng thương mại, khoảng 6 - 7% thay vì mức 3,5 - 4% như hiện nay.
Nếu lợi tức không đủ cạnh tranh, người dân hay các nhà đầu tư dù là cá nhân hay thể nhân sẽ không mặn mà tham gia.
Thứ hai, trái phiếu hạ tầng phải có tính thanh khoản cao, được niêm yết và giao dịch dễ dàng trên thị trường.
Khi có thể mua bán thuận tiện, nhà đầu tư sẽ coi đây là một tài sản an toàn, sinh lời và có thể rút vốn khi cần. Cần bổ sung tính hấp dẫn cho sản phẩm trái phiếu hạ tầng bằng các công cụ thị trường thay vì chỉ kêu gọi sự đóng góp của người dân hay doanh nghiệp.
Đề xuất Chính phủ có thể trực tiếp phát hành hoặc bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu hạ tầng gắn với những dự án lớn, chẳng hạn "Trái phiếu đường sắt cao tốc Bắc - Nam". Với uy tín của Nhà nước, các sản phẩm tài chính này sẽ có sức hấp dẫn lớn đối với người dân, tổ chức tài chính, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư và các nhà đầu tư dài hạn.














