Tại tọa đàm về phát triển công nghiệp đường sắt ngày 12/11, ông Trần Thiện Cảnh, Cục trưởng Đường sắt Việt Nam, cho biết Quy hoạch phát triển đường sắt đến năm 2030 đặt mục tiêu nâng cấp 7 tuyến hiện có và xây mới 2 tuyến đường sắt tốc độ cao; đến năm 2050 hướng tới 25 tuyến với tổng chiều dài hơn 6.300 km.
Trong đó, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam dài hơn 1.500 km đi qua 15 tỉnh, tổng mức đầu tư trên 67 tỷ USD, đang được nghiên cứu khả thi, dự kiến hoàn thành toàn tuyến vào năm 2035. Tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng dài 390 km có tổng vốn 8,4 tỷ USD, mục tiêu đưa vào khai thác trước 2030. Hà Nội và TP HCM cũng quy hoạch hệ thống đường sắt đô thị dài hơn 500 km mỗi thành phố.
Các dự án trên mở ra cơ hội phát triển ngành công nghiệp đường sắt trong nước trong 10 năm tới. Quốc hội đã thông qua 19 cơ chế, chính sách đặc thù nhằm rút ngắn thủ tục, ưu đãi đầu tư, huy động nguồn lực xã hội và đào tạo nhân lực. Song song đó, Luật Đường sắt (sửa đổi) tiếp tục thể chế hóa các chính sách về quy hoạch, đất đai, lựa chọn nhà đầu tư và chuyển giao công nghệ.
Cần sớm ban hành chính sách khuyến khích đầu tư
Ông Võ Tá Lương, Tổng giám đốc Vĩnh Hưng JSC, cho rằng 10 năm tới là giai đoạn vàng của ngành đường sắt Việt Nam với tổng nhu cầu đầu tư có thể lên tới 150 tỷ USD. Tuy nhiên, sau hơn một thế kỷ hình thành, cơ sở công nghiệp đường sắt trong nước vẫn chưa được đầu tư đúng mức, trình độ sản xuất còn thấp so với thế giới.
Theo ông Lương, công nghệ đường sắt cao tốc đòi hỏi kỹ thuật rất cao trong khi phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế về năng lực, quản lý chất lượng và tiêu chuẩn. Nếu không có chính sách hỗ trợ mạnh, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội nội địa hóa. Ông đề xuất cần ban hành chính sách khuyến khích đầu tư để doanh nghiệp trong nước sớm sản xuất linh kiện, vật tư, thiết bị phục vụ đường sắt tốc độ cao, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Đón đầu cơ hội, Vĩnh Hưng đã mở rộng nhà máy, liên kết với đối tác nước ngoài để nhận chuyển giao công nghệ, thay vì tự nghiên cứu phát triển. "Chúng tôi có thể sản xuất gối cầu, phụ kiện, thiết bị hạ tầng yêu cầu kỹ thuật cao, nhưng cần sớm có tổ hợp công nghiệp đường sắt quốc gia để tạo hệ sinh thái cho doanh nghiệp cùng phát triển", ông nói.
Chuẩn hóa tiêu chuẩn kỹ thuật
Theo ông Võ Tá Lương, ngành đường sắt hiện thiếu hệ thống tiêu chuẩn đồng bộ. Các tuyến metro ở Hà Nội và TP HCM đang áp dụng tiêu chuẩn khác nhau của Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc, dẫn đến khó thống nhất công nghệ và chuỗi cung ứng. Ông đề nghị các cơ quan chuyên môn sớm nghiên cứu, ban hành bộ tiêu chuẩn kỹ thuật thống nhất để tạo thị trường đủ lớn cho doanh nghiệp đầu tư dài hạn.
Chuyên gia Thilo Weigel, Công ty LogoMotive GmbH (Đức), cảnh báo nhiều dự án đường sắt quốc tế thất bại do thiếu đồng bộ giữa thiết kế, tiêu chuẩn và thiết bị. "Ngay cả trong châu Âu, tàu Đức muốn chạy ở Pháp vẫn phải điều chỉnh kỹ thuật. Việt Nam cần xác định tiêu chuẩn quốc gia ngay từ đầu, kiểm tra kỹ thiết kế và tham số kỹ thuật của nhà thầu", ông nói.
Ông Weigel đề xuất Việt Nam nên áp dụng tiêu chuẩn châu Âu, vì đây là hệ thống mở, linh hoạt, có thể mở rộng theo năng lực quốc gia, giúp đa dạng nguồn cung thiết bị và lựa chọn tư vấn, nhà thầu.
Ông Nilanjan Sen Gupta, Tập đoàn DB (Đức), cũng cho rằng cần bảo đảm nghiên cứu khả thi tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam đạt chất lượng cao, xây dựng cấu trúc dự án hợp lý, chuẩn hóa kỹ thuật, minh bạch cơ chế hợp đồng để thu hút vốn đầu tư quốc tế.
Huy động nguồn lực quốc tế
Đại diện Phòng Thương mại và Công nghiệp Đức (AHK), ông Bjoen Koslowkhi, cho biết Đức có hơn 39.000 km đường sắt, vận chuyển 1,2 tỷ lượt khách mỗi năm, tạo 54.000 việc làm với doanh thu 16 tỷ euro. Đức sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ Việt Nam về công nghệ, tài chính và đào tạo nhân lực.
Từ Hàn Quốc, ông Kong Myongsang, đại diện Hyundai Rotem, giới thiệu công nghệ tàu KTX thế hệ mới đạt tốc độ 370 km/h, giảm 12% lực cản không khí, giảm tiếng ồn dưới 72 dB, tiết kiệm năng lượng và tăng lợi nhuận vận hành. Hyundai Rotem đề xuất mô hình chuyển giao công nghệ ba giai đoạn: đào tạo kỹ sư Việt Nam tại Hàn Quốc, hỗ trợ sản xuất tại Việt Nam, sau đó để Việt Nam tự bảo trì và làm chủ công nghệ.
Đại diện Tập đoàn CRSC (Trung Quốc) cam kết chia sẻ công nghệ số hóa, điều khiển thông minh, giảm rung và phát thải carbon cho hệ thống đường sắt tốc độ cao.
Theo Thứ trưởng Xây dựng Nguyễn Danh Huy, với dự án đường sắt tốc độ cao, Việt Nam không tìm công nghệ đắt nhất mà là công nghệ phù hợp nhất - tiên tiến, đã được kiểm chứng, bảo đảm an toàn, hiệu quả và có khả năng chuyển giao. Việt Nam sẽ ưu tiên các giải pháp thông tin tín hiệu, tự động hóa, vật liệu mới, năng lượng xanh và công nghệ thi công thông minh.
"Chúng tôi mong các tập đoàn quốc tế khi đến Việt Nam sẽ kéo theo doanh nghiệp trong nước, hợp tác chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu", ông Nguyễn Danh Huy nói.
Đoàn Loan














