Gạo, nước mắm Việt trở thành sản phẩm, gia vị mới trên bàn ăn Nhật

Khi hạt gạo Việt gặp rào cản vào Nhật thì chính những sản phẩm chế biến như phở, bún... lại dần chiếm được cảm tình người tiêu dùng xứ hoa anh đào. Nước mắm Việt cũng len lỏi vào chuỗi nhà hàng Nhật...
Mỗi lần đi siêu thị ở Nhật Bản, ông Tạ Đức Minh - tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Nhật - lại có thói quen quan sát người tiêu dùng địa phương chọn mua gì.
Thói quen ấy, ông gọi vui là "bệnh nghề nghiệp", nhưng cũng từ đó ông nhận ra một tín hiệu đáng chú ý: Ngày càng nhiều người Nhật chọn mua bánh phở, bún, miến, mì ăn liền có xuất xứ từ Việt Nam. Xu hướng này diễn ra rõ nét hơn trong bối cảnh giá gạo nước này đang tăng cao.
Mới đây, nước mắm Việt, một loại gia vị tưởng như khó hòa nhập vào văn hóa ẩm thực Nhật, cũng đang bắt đầu có mặt tại hơn 50 cửa hàng ăn địa phương, trong chương trình hợp tác giữa Thương vụ Việt Nam và chuỗi nhà hàng Nhật.
Hai câu chuyện về gạo và nước mắm là minh chứng rõ ràng cho tiềm năng thâm nhập thị trường Nhật của nông sản và thực phẩm chế biến Việt Nam, nếu biết gắn với giá trị văn hóa và chiến lược truyền thông bài bản.
Vì sao ở Nhật ít gạo Việt?
Trao đổi với Tuổi Trẻ Online, ông Tạ Đức Minh cho biết:
Từ năm 2024 đến nay, giá gạo bán lẻ tại các siêu thị Nhật Bản tăng cao. Khảo sát ở một số siêu thị ghi nhận giá một túi gạo 5kg đã lên hơn 4.000 yen Nhật, tương đương khoảng 700.000 đồng. Trong bối cảnh đó, nhiều doanh nghiệp và hệ thống bán lẻ Nhật Bản bắt đầu quan tâm đến gạo Việt Nam.
Cách đây hai năm, Thương vụ từng phối hợp với một số đơn vị để giới thiệu các loại gạo như ST25 hay giống Japonica của Việt Nam. Tuy nhiên việc tiếp cận thị trường Nhật không hề dễ dàng, do nước này có nhiều quy định khắt khe để bảo vệ sản xuất nông nghiệp nội địa,
* Quy định khắt khe mà ông nhắc đến cụ thể là gì?
- Theo cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Nhật Bản cho phép nhập khẩu khoảng 770.000 tấn gạo mỗi năm mà không áp thuế. Tuy nhiên chỉ khoảng 100.000 tấn trong số này được phân phối cho khu vực tư nhân để tiêu dùng trực tiếp, phần còn lại chủ yếu được sử dụng trong chế biến thực phẩm hoặc làm thức ăn chăn nuôi.
Đối với lượng gạo vượt quá hạn ngạch, Nhật Bản áp dụng mức thuế nhập khẩu rất cao nhằm bảo vệ nông dân trong nước. Cụ thể, mức thuế hiện tại là 341 yen (khoảng 2,40 USD) cho mỗi kg gạo nhập khẩu ngoài hệ thống hạn ngạch.
Việt Nam không phải quốc gia được hưởng chính sách hạn ngạch này, cũng không nằm trong nhóm các quốc gia được hưởng ưu đãi thuế quan theo các hiệp định như WTO hay CPTPP. Nhưng trong bối cảnh giá gạo nội địa Nhật tăng cao gần đây, chính phủ nước này mới cho phép nhập khẩu gạo theo hình thức thông thường, nhưng phải chịu thuế tối đa 341 yen/kg.
Để hình dung, trước đây mức thuế cho 10kg gạo ngoài hạn ngạch chỉ khoảng 2.000 yen (tức 200 yen/kg), nếu nhập theo mức thuế 341 yen thì rất khó cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy trong nhiều năm, gạo Việt gần như không hiện diện tại các kệ siêu thị Nhật.
* Ngoài rào cản về thuế và hạn ngạch, còn những hàng rào phi thuế quan nào khiến gạo Việt khó vào Nhật Bản?
- Nhật Bản yêu cầu kiểm định rất nghiêm ngặt. Chỉ riêng nhóm tiêu chí cơ bản cho gạo đã có khoảng 250 chỉ số, chưa kể nhiều quy chuẩn kỹ thuật khác. Họ không công bố trước các chất cấm cụ thể, mà kiểm tra ngẫu nhiên từng mẫu sản phẩm.
Nếu phát hiện chỉ số nào vượt ngưỡng, lô hàng sẽ bị từ chối nhập khẩu. Đây là một rào cản kỹ thuật không dễ vượt qua, đòi hỏi doanh nghiệp Việt phải kiểm soát rất chặt chất lượng ngay từ khâu sản xuất và xử lý sau thu hoạch.
* Trong bối cảnh như vậy, thị trường Nhật có đang "mở cửa" hơn cho gạo Việt không?
- Có tín hiệu tích cực. Nhiều doanh nghiệp nhập khẩu, nhà bán lẻ Nhật Bản tìm đến Thương vụ Việt Nam như một kênh kết nối để tiếp cận nhà xuất khẩu Việt. Cách đây một tháng, chúng tôi đưa một đoàn doanh nghiệp siêu thị Nhật sang Việt Nam và hai bên đã ký kết hợp đồng đưa gạo Việt vào thị trường Nhật.
Gần đây, các đơn vị Nhật còn bày tỏ quan tâm tới các dòng sản phẩm gạo hữu cơ. Họ đặc biệt chú ý đến các mô hình sản xuất sinh thái của Việt Nam, ví dụ như mô hình lúa - tôm, khá tương đồng với mô hình lúa - vịt của Nhật, nơi vịt thả ăn tôm cá trong ruộng lúa, không dùng hóa chất trong vùng trồng.
Nông sản Việt cần hơn một mùa vụ
* Cơ hội khác cho nông sản Việt Nam thì sao, thưa ông?
- Thực tế cho thấy người tiêu dùng Nhật rất yêu thích các loại trái cây tươi như vải, nhãn, thanh long, xoài, chuối, sầu riêng..., vốn là thế mạnh của Việt Nam.
Nhưng nông sản Việt thường mang tính mùa vụ rõ rệt, như vải thiều chỉ thu hoạch trong vòng một tháng, khiến nguồn cung không được nhiều. Từ góc độ Thương vụ, chúng tôi luôn khuyến nghị doanh nghiệp trong nước cần tạo giá trị gia tăng sau thu hoạch thông qua chế biến sâu. Không chỉ xuất khẩu trái cây tươi, mà cần phát triển các dòng sản phẩm như xoài sấy khô, thanh long sấy dẻo, nước vải đóng chai,...
Với gạo cũng vậy, ngoài sản phẩm thô, cần hướng đến chế biến thành bún, miến, phở, mì ăn liền để dễ tiếp cận người tiêu dùng Nhật. Một ví dụ điển hình để lan tỏa giá trị sản phẩm và thương hiệu hàng Việt Nam ra nước ngoài là Lễ hội phở Việt Nam tại Tokyo do báo Tuổi Trẻ tổ chức.
* Vượt qua tiêu chuẩn kỹ thuật chưa đủ, doanh nghiệp còn cần chuẩn bị gì?
- Không ít sản phẩm bán tốt tại Việt Nam, Mỹ hay châu Âu nhưng không thể bán được sang Nhật do không đáp ứng được tiêu chuẩn rất đặc thù về chất phụ gia và chất bảo quản. Thế nên nhiều doanh nghiệp phải có dây chuyền sản xuất riêng cho sản phẩm vào thị trường này.
Ngoài việc vượt qua hàng rào kỹ thuật, doanh nghiệp cần đầu tư vào công nghệ bảo quản sau thu hoạch, bảo quản lạnh đảm bảo chất lượng ổn định và đặc biệt là bao bì sản phẩm.
Ở Nhật, bao bì không chỉ cần đẹp, bắt mắt khiến người tiêu dùng muốn mua mà còn phải thể hiện được thông tin rõ ràng: thành phần, khả năng gây dị ứng, xuất xứ... Họ thậm chí thay đổi bao bì theo mùa, theo dịp lễ như Noel hay hoa anh đào mùa xuân...