Trong hồ sơ Dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt áp dụng cho dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, Bộ Xây dựng đã đưa ra các cơ sở để đề xuất cơ chế nhà đầu tư được vay vốn với lãi suất 0%.
Bộ Tài chính đề nghị đánh giá tính khả thi
Như VietNamNet đã đưa tin, Bộ Xây dựng vừa hoàn thiện Dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt áp dụng cho dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Hồ sơ dự thảo đã được gửi Bộ Tư pháp để thẩm định.
Theo đó, Bộ Xây dựng đã đề xuất hàng loạt cơ chế hỗ trợ tài chính, ưu đãi thuế và quy định riêng dự án thực hiện theo hình thức đối tác công tư.
Liên quan đến chính sách Nhà nước cho vay tối đa không quá 80% tổng mức đầu tư dự án, tại Tờ trình Dự thảo Nghị quyết, Bộ Xây dựng cho biết, để bảo đảm tài chính của dự án theo hình thức đầu tư kinh doanh, tổng hợp ý kiến của một số nhà đầu tư (Công ty Vinspeed, Công ty Thaco) mà Bộ nhận được, trong đó đề nghị Nhà nước cho vay lại từ ngân sách với hạn mức vay 80% tổng mức đầu tư (không bao gồm giải phóng mặt bằng), lãi suất 0% trong vòng 30 năm; 20% số vốn còn lại nhà đầu tư tự huy động.
Theo Luật Quản lý nợ công 2017, hiện không có cơ chế Chính phủ sử dụng vốn ngân sách nhà nước (NSNN) cho doanh nghiệp vay lại nên theo ý kiến của Bộ Tài chính cần báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Bộ Xây dựng cũng dẫn ý kiến của Bộ Tài chính về vấn đề này. Theo đó, Bộ Tài chính cho rằng, đề xuất Chính phủ vay về cho chủ dự án vay lại với lãi suất bằng 0% trong thời hạn (không quá) 30 năm, tương đương với việc Chính phủ phải đứng ra trả lãi suất cho khoản vay. Việc này sẽ làm gia tăng chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ lãi trực tiếp của Chính phủ/tổng thu NSNN, có khả năng vượt trần, làm ảnh hưởng tiêu cực đến xếp hạng tín nhiệm quốc gia.
Thêm vào đó, lãi suất 0% làm suy yếu khả năng hoàn vốn và giảm động lực trả nợ của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp không có áp lực trả nợ (vì NSNN trả nợ lãi) sẽ dẫn tới khó thu hồi nợ, không phù hợp với nguyên tắc quản lý nợ theo hướng thị trường.
Theo cơ chế đặc thù đề xuất, nhà đầu tư có trách nhiệm hoàn trả toàn bộ khoản vay một lần khi hết thời hạn khoản vay là rất rủi ro. Vì vậy, Bộ Tài chính đề nghị Bộ Xây dựng đánh giá tính khả thi của phương án này khi tổng nhu cầu vay rất lớn, tuy nhiên, khả năng thu hồi vốn thực tế rất khó bảo đảm nếu dự án chậm thu hồi hoặc không đạt hiệu quả tài chính như dự kiến.
Trường hợp để khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia đầu tư dự án, Bộ Xây dựng đã tổng hợp các đề xuất của một số nhà đầu tư để các bộ, ngành xem xét, đánh giá, xây dựng cơ chế chính sách.
“Nội dung chính sách liên quan đến lĩnh vực tài chính, Bộ không có chức năng, chuyên môn, thông tin nên không thể đánh giá các tác động của chính sách này đối với kinh tế vĩ mô”, Bộ Xây dựng thừa nhận. Do đó, với các thông tin nêu trên, Bộ chưa có cơ sở để tổng hợp báo cáo Chính phủ xem xét cơ chế chính sách này.
Thời gian hoàn vốn cho nhà đầu tư khoảng 33,61 năm
Về chính sách tỷ lệ vốn nhà nước tham gia không quá 80% tổng mức đầu tư dự án trong trường hợp dự án thực hiện theo hình thức đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), Bộ Xây dựng đã nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế của 27 dự án đầu tư trong lĩnh vực đường sắt theo phương thức PPP trên thế giới. Qua đó cho thấy, một số quốc gia phải nâng mức hỗ trợ của Nhà nước đối với các dự án PPP lên rất cao.
Bên cạnh đó, Hồ sơ Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án sơ bộ đã tính toán, trường hợp nhà đầu tư PPP đầu tư phương tiện, thiết bị vận hành ban đầu 6,57 tỷ USD (khoảng 9,7% tổng mức đầu tư dự án bao gồm cả chi phí giải phóng mặt bằng) và quá trình khai thác tiếp tục đầu tư thêm phương tiện khoảng 13,31 tỷ USD, Nhà nước hỗ trợ bù lỗ trong thời gian đầu khai thác khoảng 0,78 tỷ USD (thông qua hỗ trợ giá vé), kết quả cho thấy thời gian hoàn vốn cho nhà đầu tư khoảng 33,61 năm.
Trường hợp doanh thu giảm 5% thời gian hoàn vốn cho nhà đầu tư khoảng 41,18 năm và Nhà nước cần hỗ trợ 1,05 tỷ USD. Trường hợp doanh thu giảm 10% thì không thể hoàn vốn cho nhà đầu tư.
Bộ Xây dựng cũng dẫn quy định, đối với dự án PPP tỷ lệ vốn Nhà nước được áp dụng không quá 70% sơ bộ tổng mức đầu tư, tổng mức đầu tư của dự án. Dự án có quy mô rất lớn, kỹ thuật phức tạp, phục vụ chủ yếu an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh nên hiệu quả kinh tế, tài chính không cao.
Để bảo đảm hiệu quả tài chính của dự án cũng như thu hút được nhà đầu tư tư nhân tham gia hình thức này, cần nghiên cứu tăng mức hỗ trợ của Nhà nước, Bộ Xây dựng nhận được đề xuất chính sách “tỷ lệ vốn Nhà nước tham gia không quá 80% tổng mức đầu tư dự án được phê duyệt”.
Về ưu đãi thuế, theo Bộ Xây dựng, pháp luật hiện hành quy định danh mục hàng hóa trong nước đã sản xuất được, chưa có quy định về hàng hóa sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của dự án, phải có cơ chế chính sách vượt trội về thuế nhập khẩu máy móc thiết bị ở trong nước chưa sản xuất được.
Dựa trên cơ sở tham khảo ý kiến của Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng đề xuất chính sách: “Nhà đầu tư được miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải đường sắt tạo tài sản cố định và các hàng hóa, linh phụ kiện, vật tư, phụ tùng nhập khẩu phục vụ đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp, bảo trì, khai thác kết cấu hạ tầng đường sắt và các vật tư, thiết bị khác phục vụ trực tiếp cho dự án mà trong nước chưa sản xuất được, hoặc sản xuất được nhưng không đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật của dự án”.















