Đông Nam Á sẽ rót 200 tỷ USD cho lĩnh vực này – Việt Nam không đứng ngoài với ‘siêu công trình’ 24 tỷ USD, chỉ 30 quốc gia có

Các quốc gia Đông Nam Á, hiện chủ yếu phụ thuộc vào than và khí đốt, đang tích cực theo đuổi năng lượng hạt nhân, với khoản đầu tư ước tính hơn 200 tỷ đô la để phát triển công suất 25 GW vào năm 2050, chủ yếu thông qua các lò phản ứng mô-đun nhỏ (SMR).
Điện hạt nhân
Cơn sốt năng lượng hạt nhân đã lan đến Đông Nam Á, khu vực vốn phụ thuộc nhiều vào than và khí đốt để sản xuất điện, nhưng lại không có lò phản ứng hạt nhân nào đang hoạt động.
Trong bối cảnh năng lượng hạt nhân đã chứng kiến sự hồi sinh ở nhiều quốc gia trong những năm gần đây, các nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng của Đông Nam Á đã bắt đầu soạn thảo kế hoạch sử dụng lò phản ứng hạt nhân để đáp ứng nhu cầu điện năng ngày càng tăng đồng thời giảm lượng khí thải carbon.
Trong khi châu Á, nhờ Trung Quốc và Ấn Độ, đang dẫn đầu thế giới về phát triển điện hạt nhân và xây dựng lò phản ứng, khu vực Đông Nam Á vẫn chưa có lò phản ứng hạt nhân đầu tiên. Điều này có thể thay đổi vào khoảng năm 2030 và nhiều khả năng công nghệ lò phản ứng mô-đun nhỏ (SMR) mới sẽ tạo ra phần lớn điện hạt nhân trong tương lai tại các nền kinh tế ASEAN.
Năng lượng hạt nhân có thể giúp cắt giảm sản lượng điện than
SMR được cho là đơn giản và rẻ hơn trong việc xây dựng và lắp đặt. Do kích thước nhỏ hơn, SMR có thể được chọn để lắp đặt tại các địa điểm không phù hợp với các lò phản ứng lớn. Chúng cũng rẻ hơn và nhanh hơn đáng kể so với lò phản ứng thông thường, và có thể được xây dựng từng bước để đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của một địa điểm.
Các quốc gia Đông Nam Á còn rất nhiều vấn đề về quy hoạch, sự đồng thuận, hỗ trợ của công chúng, tài trợ và an toàn cần giải quyết trước khi lắp đặt lò phản ứng hạt nhân đầu tiên được đưa vào vận hành.
Nhưng lời hứa về sản xuất điện không phát thải từ năng lượng hạt nhân không phải là điều dễ dàng bỏ qua ở khu vực, nơi than đá đang là vua.
Ví dụ, Việt Nam dẫn đầu khu vực về tăng trưởng năng lượng mặt trời và gió so với các nước trong khu vực như Thái Lan và Philippines. Tuy nhiên, khi nhu cầu điện tăng hơn gấp đôi trong thập kỷ qua, Việt Nam đã đáp ứng bước nhảy vọt này bằng cách tăng gấp đôi sản lượng điện than.
Theo dữ liệu từ Global Energy Monitor (GEM), Việt Nam đã tăng thêm 14 GW công suất điện than kể từ năm 2015 và có tổng công suất 27,2 GW tính đến cuối năm 2024, cùng với 5,9 GW công suất điện than khác đang được phát triển.
Theo một báo cáo mới của Wood Mackenzie, Việt Nam cũng dẫn đầu các kế hoạch năng lượng hạt nhân ở Đông Nam Á.
Công ty tư vấn năng lượng dự báo Việt Nam có kế hoạch nâng công suất sớm nhất là vào năm 2030 và có thể là quốc gia duy nhất trong khu vực triển khai nhà máy điện hạt nhân lò phản ứng nước áp lực (PWR) thông thường.
Các nước khác sẽ ưu tiên sử dụng lò phản ứng mô-đun nhỏ (SMR), WoodMac cho biết.
Chi phí cho năng lượng hạt nhân
Tuy nhiên, theo các nhà phân tích của Wood Mackenzie, Đông Nam Á sẽ còn một chặng đường dài để sản xuất điện từ năng lượng hạt nhân.
Indonesia, nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á, đã đưa hai tổ máy SMR công suất 250 MW vào kế hoạch cung cấp điện 10 năm, đặt mục tiêu sản lượng điện hạt nhân đạt 5% vào năm 2040. Philippines đang xem xét triển khai SMR, đặt mục tiêu đạt 2,4 GW vào năm 2050, mặc dù Wood Mackenzie dự đoán chỉ đạt được một nửa công suất này. Thái Lan đang cân nhắc điện hạt nhân với công suất 600 MW vào năm 2037, mở rộng lên 3 GW vào năm 2050, khi đó điện hạt nhân sẽ chiếm 5% tổng sản lượng điện.
Tổng cộng, những dự án tham vọng này cần 208 tỷ đô la đầu tư để phát triển công suất 25 GW vào năm 2050. Việc phát triển một nhà máy điện hạt nhân thông thường quy mô lớn từ khi được cấp phép lần đầu đến khi vận hành có thể mất từ 10 đến 30 năm, và thậm chí còn lâu hơn nữa ở một khu vực chưa từng có nhà máy điện hạt nhân.
Chỉ có Việt Nam đang xem xét xây dựng nhà máy điện hạt nhân nước áp suất (Pressurized Water Reactor - PWR), WoodMac cho biết.
"Trước đây, việc cấp phép cho các nhà máy điện hạt nhân lớn mất từ 5 đến 15 năm, cộng thêm việc xây dựng mất thêm 5 đến 15 năm nữa. Ngược lại, các lò phản ứng mô-đun nhỏ (SMR) có thể chuyển từ giai đoạn phê duyệt sang vận hành chỉ trong vòng 2 đến 3 năm nếu các chính sách hỗ trợ đã được áp dụng", Liew nói thêm.
Tiến độ nhanh chóng đó có thể mang tính chuyển đổi cho các thị trường như Đông Nam Á, nơi nhu cầu chuyển đổi năng lượng nhanh hơn đang ngày càng gia tăng.”
Bất chấp đà phát triển của năng lượng hạt nhân trên toàn cầu, đặc biệt là các kế hoạch năng lực hạt nhân ở Đông Nam Á, các quốc gia này vẫn phải vượt qua những thách thức đáng kể trên con đường hướng tới nguồn điện phát thải thấp 24/7 từ các lò phản ứng hạt nhân.
“Những vướng mắc về quy định, sự hoài nghi của công chúng, sự nhạy cảm về địa chính trị và năng lực kỹ thuật hạn chế đều là thách thức,” Viện Chính sách Công Đông Nam Á cho biết trong một báo cáo đầu năm nay.
Mặc dù các lò phản ứng hạt nhân nhỏ (SMR) có thể mang lại giải pháp tiềm năng, nhưng chúng không thể tự mình giải quyết tất cả các vấn đề về cấu trúc.
“Tiến bộ thực sự đòi hỏi hành động phối hợp của khu vực và cam kết chính trị mạnh mẽ hơn,” viện nghiên cứu cho biết.
Liew của WoodMac lưu ý rằng “sự thành công của giấc mơ hạt nhân của khu vực sẽ phụ thuộc vào việc phát triển các khuôn khổ quy định phù hợp và đảm bảo các đối tác quốc tế giàu kinh nghiệm.”