Nhảy đến nội dung
 

'Đã có những ý tưởng rất đổi mới, rất thị trường nhưng chưa thực hiện được' - Báo VnExpress

- Nhìn lại chặng đường phát triển kinh tế - xã hội từ thời kỳ Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những bước tiến vượt bậc. Theo ông, đâu là những dấu ấn rõ nét nhất, khẳng định vai trò và sự phát triển của khoa học và công nghệ trong nước?

- Trong thời kỳ Đổi mới, khoa học công nghệ Việt Nam đã có những sản phẩm phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội được đánh giá cao. Chúng ta đã tự chủ thiết kế, chế tạo, thi công những công trình hạ tầng lớn như cầu dây văng, cầu có trụ đỡ cao, hệ thống đường cao tốc, nhà cao tầng...

Trong lĩnh vực năng lượng, trước đây việc xây nhà máy thủy điện Hòa Bình cần đến sự tham gia trực tiếp của hàng nghìn chuyên gia Liên Xô. Nhưng nhà máy thủy điện Sơn La - nhà máy lớn nhất Đông Nam Á, sau đó là thủy điện Lai Châu hoàn toàn do nhà khoa học và công nhân Việt Nam thiết kế, thi công.

Trong lĩnh vực quốc phòng, nhiều thành tựu của khoa học công nghệ Việt Nam đã được ứng dụng và được lãnh đạo Bộ Quốc phòng đánh giá rất cao như là hệ thống radar, tên lửa phòng không, tàu hộ vệ tên lửa của hải quân. Chúng ta đã tự đóng được những tàu hộ vệ tên lửa rất hiện đại theo thiết kế lớp Molniya của Nga.

Về y học, có thể nói Việt Nam cũng là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới về tự chủ vaccine tiêm chủng mở rộng cho trẻ em, bao gồm bạch hầu, ho gà, uốn ván, sởi, bại liệt... Với những loại vaccine mang tính thời sự cấp bách như cúm gà H5N1, tiêu chảy Rotavin, chúng ta cũng là một trong số ít nước có thể tự chủ, tự sản xuất được, đáp ứng nhu cầu trong nước.

Trong nông nghiệp, thành tựu khoa học đóng góp 30% giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, góp phần quan trọng tạo ra kỳ tích bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu nông lâm thủy sản hàng đầu thế giới chỉ trong thời gian ngắn.

Khác biệt rõ nhất giữa thời kỳ Đổi mới so với giai đoạn bao cấp là nhiều kết quả nghiên cứu đã được thương mại hóa, đi vào cuộc sống phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Việt Nam đã hình thành hệ thống các doanh nghiệp công nghệ cao. Một ví dụ rõ nét là ngành công nghệ thông tin, có thể nói đi lên từ con số không nhưng nay đã tự sản xuất thiết bị 5G, đồng thời trở thành một quốc gia xuất khẩu phần mềm hàng đầu khu vực.

- Dưới góc độ quản lý, thành tựu nào của ngành đã ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình Việt Nam hội nhập và phát triển sau Đổi mới?

- Nhìn từ góc độ quản lý, trong 40 năm qua, thành tựu quan trọng nhất là Việt Nam đã chuyển đổi về mặt tư duy, từ nền kinh tế tập trung, kế hoạch hóa sang cơ chế thị trường, tiệm cận với thông lệ chuẩn mực quốc tế. Thay đổi tư duy là thay đổi căn bản nhất và là điều khó khăn lớn nhất trong công tác quản lý.

Với tư duy tôn trọng và tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường, từ năm 2000 đến khoảng năm 2012, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống luật pháp tương đối đầy đủ trong tất cả lĩnh vực về khoa học công nghệ, từ sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng, năng lượng nguyên tử, công nghệ cao tới chuyển giao công nghệ. Hệ thống pháp luật này phản ánh việc chuyển sang nền kinh tế thị trường một cách mạnh mẽ.

Có những đạo luật ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Ví dụ, nếu không xây dựng luật sở hữu trí tuệ năm 2005, chắc chắn Việt Nam không thể trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, bởi vì một trong điều kiện tiên quyết của WTO là phải bảo hộ tài sản trí tuệ không chỉ cho người Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam mà cho cả doanh nghiệp và tổ chức nước ngoài hoạt động ở Việt Nam.

Hoặc nếu không có luật năng lượng nguyên tử năm 2008, chắc chắn Quốc hội không thể phê duyệt dự án điện hạt nhân Ninh Thuận bởi không đủ căn cứ pháp lý, quy định của luật pháp về quản lý, về vấn đề an toàn hoặc về vấn đề công nghệ. Chính các luật mới đã tạo nền tảng cho sự phát triển, đặc biệt khi Việt Nam hội nhập với thế giới.

- Từ một hệ thống các tổ chức được quản lý theo mô hình cũ, ngành khoa học và công nghệ Việt Nam đã có những chính sách gì để tự thay đổi và nâng cao hiệu quả hoạt động?

- Tư duy quản lý trước kia là kế hoạch hóa và tập trung, Nhà nước bao cấp toàn bộ, bởi trước đây không có các tổ chức khoa học của tư nhân hoặc đa sở hữu. Kinh phí dành cho khoa học hoàn toàn do ngân sách nhà nước bảo đảm, và cách quản lý chi tiêu thường rất rườm rà, cứng nhắc theo kiểu kế hoạch hóa.

Từ thực tế đó, Việt Nam đã có hàng loạt chính sách mạnh dạn và đổi mới theo cơ chế thị trường, ví dụ Nghị định 115 (2005) của Chính phủ về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Sau đấy là Nghị định 80 (2007) về doanh nghiệp khoa học công nghệ. Lần đầu tiên, chúng ta có khái niệm về doanh nghiệp khoa học công nghệ, một hình thức của doanh nghiệp khởi nguồn (spinoff) và doanh nghiệp khởi nghiệp (startup) của các nước phát triển theo kinh tế thị trường.

Sau Luật Khoa học công nghệ 2013, Việt Nam đã ban hành 6 nghị định và hơn 60 thông tư quy định các chính sách quan trọng như đầu tư, cơ chế tài chính, đãi ngộ và trọng dụng cán bộ khoa học, ưu đãi đối với nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài...

Đó là một hệ thống luật pháp tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ về khoa học công nghệ trong giai đoạn Đổi mới, góp phần đưa nhiều kết quả nghiên cứu vào thực tiễn và có nhiều sản phẩm công nghệ tốt phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội.

- "Cơ chế tự chủ" được coi là một điểm nhấn quan trọng trong đổi mới. Ông nhận định thế nào về từ khóa này? Đây có phải là bước "cởi trói" cần thiết, tạo động lực mới cho các tổ chức khoa học và công nghệ?

- Với cơ chế này, lần đầu tiên chúng ta giao quyền tự chủ rất cao cho các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Họ được quyền tự chủ như doanh nghiệp đối với tất cả phương diện về tổ chức, về biên chế, về hoạt động, và đặc biệt về tài chính.

Họ được quyền thương mại hóa kết quả nghiên cứu, được sản xuất kinh doanh, được giao tài sản để liên doanh, liên kết. Mặc dù là đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, không phải doanh nghiệp, họ có thể sản xuất kinh doanh, được cấp đăng ký kinh doanh như doanh nghiệp và được hưởng những quyền tự chủ cũng như sự ưu đãi cao nhất của hệ thống luật pháp đối với các doanh nghiệp. Ví dụ chế độ thuế, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, chế độ ưu đãi về đất đai, chế độ tự chủ về mặt tài chính cho hoạt động thương mại hóa.

Trên thực tế, việc giao quyền tự chủ cho các viện nghiên cứu, trường đại học trong hoạt động khoa học công nghệ nhằm giúp họ phát huy tính năng động và sáng tạo, đỡ bị hạn chế bởi hệ thống quản lý nặng về thủ tục hành chính, hóa đơn chứng từ hoặc cơ chế xin cho. Khi được giao nhiệm vụ bằng cơ chế tự chủ, cơ chế khoán chi, cơ chế đặt hàng, họ có thể tiến hành hoạt động nghiên cứu một cách thuận lợi hơn và tạo ra sản phẩm tốt hơn.

- Hiệu quả thực tế của chính sách cởi mở này ra sao?

- Phải nói thực, rất tiếc hiệu quả của cơ chế tự chủ chưa được như kỳ vọng. Vướng mắc lớn nhất là chưa đồng bộ hóa được hệ thống luật pháp. Những quy định có thể thông thoáng, cởi mở của Luật Khoa học và công nghệ 2000, 2013 và các luật liên quan lại vướng mắc với những luật khác, ví dụ Luật Đầu tư, Luật Ngân sách nhà nước, Luật quản lý sử dụng tài sản công, các Luật Thuế, Luật Viên chức.

Sự chưa đồng bộ đó khiến việc thực hiện các quy định của Luật Khoa học và công nghệ rất khó cho các viện, trường, nhà khoa học. Bởi trong hệ thống Nhà nước vẫn quan niệm rằng những luật gốc của từng lĩnh vực có hiệu lực pháp lý cao hơn.

Ví dụ, Luật Khoa học và công nghệ có thể tạo điều kiện cho nhà khoa học thành lập doanh nghiệp khoa học công nghệ, nhưng Luật Viên chức lại cấm viên chức thành lập và điều hành doanh nghiệp tư nhân. Hay Luật Khoa học và công nghệ tạo điều kiện cho doanh nghiệp khoa học công nghệ được miễn thuế, nhưng ngành thuế nói trong Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp không có quy định nào về ưu đãi thuế cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ, chỉ có ưu đãi thuế cho doanh nghiệp công nghệ cao, còn Luật Doanh nghiệp cũng chưa có quy định loại hình doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong hệ thống doanh nghiệp Việt Nam.

Vì thế, xét trên tổng thể quốc gia đã có những ý tưởng rất tiến bộ, rất đổi mới, rất thị trường nhưng vẫn chưa thực hiện được.

- Như vậy, có thể nói thể chế chưa đồng bộ là một điễm nghẽn của ngành khoa học công nghệ trong vài thập niên qua?

- Đúng, những điểm nghẽn trong thể chế về cơ chế tài chính, đầu tư và nhân lực khiến chúng ta từng đặt ra nhiều mục tiêu trong Chiến lược Phát triển Khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 nhưng đến bây giờ vẫn chưa đạt được.

Ví dụ, đầu tư cho khoa học công nghệ, Luật và Chiến lược đều quy định là tới năm 2020 phải duy trì được 2% tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm đầu tư cho khoa học công nghệ và tổng đầu tư xã hội cho khoa học và công nghệ trên 2% GDP. Nhưng đến nay, cả hai chỉ tiêu đều không đạt. Năm 2024, chi từ ngân sách nhà nước chỉ 0,82% dành cho khoa học và công nghệ; tổng đầu tư xã hội cho khoa học công nghệ chưa đến 1% GDP.

Hoặc chỉ tiêu số lượng cán bộ khoa học, chúng ta đặt ra tới 2020 phải là 11-12 nhà khoa học trên một vạn dân nhưng đến giờ vẫn loanh quanh mức 7-8 người.

Những thiếu hụt như vậy gây cản trở sự phát triển, ngay cả Chương trình phát triển các sản phẩm quốc gia theo quyết định của Thủ tướng vẫn chưa tạo ra sản phẩm chủ lực của nền kinh tế. Ví dụ, các sản phẩm thiết bị siêu trường siêu trọng, an ninh mạng, hay vaccine vẫn chỉ phát triển ở mức tạm chấp nhận, chưa trở thành sản phẩm đem lại lợi ích cho quốc gia ở quy mô lớn và có tầm cỡ khu vực, quốc tế. Hay vi mạch bán dẫn là sản phẩm quốc gia được phê duyệt từ cách đây hơn 15 năm, nay gần như lại bắt đầu từ đầu.

- Trong ba điểm nghẽn tài chính, đầu tư, nhân lực, vì sao cơ chế tài chính lại được coi là điểm nghẽn lớn nhất?

- Cơ chế tài chính là điểm nghẽn của các điểm nghẽn trong khoa học công nghệ. Vì nếu giải quyết được, ta sẽ tháo gỡ được vấn đề đầu tư, và có chế độ đãi ngộ nhà khoa học tốt hơn, thu hút được nhân lực khoa học công nghệ trong nước và nước ngoài.

Cơ chế tài chính cho khoa học và công nghệ có thể hiểu gồm ba cơ chế: cơ chế quỹ, cơ chế khoán chi và cơ chế đặt hàng. Cả ba đều gặp vướng mắc.

Cơ chế đặt hàng là nhà nước và doanh nghiệp đặt hàng những vấn đề mà nền kinh tế cần, sau đó tiếp nhận kết quả và chịu trách nhiệm đầu tư tiếp, trong đó Nhà nước đặt hàng nghiên cứu một số lĩnh vực mà tư nhân không làm hoặc không được làm, ví dụ nghiên cứu liên quan đến an ninh quốc phòng, xã hội nhân văn, dân tộc, tôn giáo. Hiện khâu đặt hàng vô cùng hạn chế, chủ yếu vẫn do các nhà khoa học tự đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu.

Cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng, tức khi Nhà nước đồng ý cấp nguồn kinh phí cho một dự án nghiên cứu thì việc nghiệm thu, thanh quyết toán chỉ căn cứ vào sản phẩm cuối cùng, kiểm soát chi chỉ cần bảng kê các nội dung thực chi có xác nhận của cơ quan chủ trì như quy định tại Thông tư liên tịch số 27/2015. Cơ chế này đã có quy định, nhưng trên thực tế gần như chưa nhà khoa học nào được làm. Bởi theo Luật Ngân sách nhà nước, muốn quyết toán phải đầy đủ hóa đơn chứng từ, rồi đúng định mức, đúng quy trình thủ tục hành chính. Như vậy đâu còn là khoán chi?

Cơ chế quỹ để cấp phát kinh phí từ ngân sách Nhà nước cho khoa học công nghệ thì không được áp dụng. Lẽ ra, khi nhà khoa học có vấn đề cần nghiên cứu thì cần được phê duyệt và cấp kinh phí ngay. Nhưng trên thực tế lại phải thực hiện quy trình của dự án xây dựng cơ bản, tức làm dự toán, làm thuyết minh rồi qua nhiều cấp phê duyệt trước khi kết thúc năm tài chính, tổng hợp vào dự toán ngân sách báo cáo đến Chinh phủ, Quốc hội, rồi năm sau mới được bố trí kinh phí. Cách làm đó không đảm bảo tính thời sự, không giải quyết được những vấn đề cấp bách của khoa học.

Bên cạnh đó, các quỹ của Nhà nước cho khoa học cũng sẽ không tồn tại được nếu bị coi là quỹ tài chính ngoài ngân sách, phải tự đảm bảo chi thường xuyên và chỉ được cấp vốn một lần, tức là phải kinh doanh, cho vay và bảo lãnh vốn vay để có thể tạo ra lợi nhuận nuôi bộ máy của họ. Điều này không thực tế vì đầu tư cho khoa học có tỷ lệ rủi ro rất cao và không thể thu hồi được trực tiếp vốn tài trợ cho nghiên cứu khi thương mại hóa.

- Để giao nguồn tài chính thông thoáng cho nhà khoa học, điều cốt lõi là phải xây dựng được niềm tin vào việc sử dụng nguồn đầu tư thực chất và hiệu quả. Theo ông, cần giải pháp gì để thiết lập và củng cố niềm tin quan trọng này?

- Để tin vào tính thực chất của các đề tài khoa học, cần đặt lòng tin vào người làm khoa học và cải thiện chất lượng các hội đồng khoa học được thành lập để tư vấn, đánh giá, phê duyệt, nghiệm thu các đề tài ấy.

Vấn đề đầu tiên của các hội đồng khoa học là ở cách thành lập hội đồng và uy tín của thành viên hội đồng. Trong thực tế, thành viên hội đồng thường do các chuyên viên của cơ quan quản lý mời. Khi mời những người không đúng chuyên môn, không có uy tín khoa học cao thì chất lượng hội đồng không cao.

Thứ hai là vấn đề trách nhiệm. Các hội đồng thường thành lập theo từng đề tài dự án, họp xong là tự giải thể, không còn trách nhiệm. Các hội đồng tư vấn sau khi xác định, tuyển chọn, xét chọn nhiệm vụ mặc nhiên tự giải thể ngay khi kết thúc phiên họp. Như vậy không có một cơ quan nào chịu trách nhiệm về mặt chuyên môn, hỗ trợ cho nhà khoa học trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Đến khi làm xong lại thành lập hội đồng nghiệm thu và cũng lại giải thể ngay sau khi hoàn thành nghiệm thu.

Thứ ba, chúng ta chưa thực hiện khoán chi đến sản phẩm cuối cùng nên trách nhiệm hội đồng không rõ ràng, chỉ quan tâm đến phương pháp nghiên cứu, số lượng chuyên đề và hội thảo khoa học, rà soát hóa đơn, chứng từ chứ không thấy rõ trách nhiệm của mình là đánh giá sản phẩm cuối cùng.

Ở Việt Nam, cách tổ chức hội đồng của Quỹ Phát triển Khoa học công nghệ quốc gia (Nafosted) là một mô hình quản lý tiệm cận các thông lệ quốc tế có thể tham khảo. Đó là nơi các hội đồng khoa học là những người có uy tín do cộng đồng nhà khoa học tin tưởng bầu ra. Hội đồng có nhiệm kỳ 2,5 năm nên sau khi phê duyệt đề tài, họ vẫn tiếp tục theo dõi, hỗ trợ chuyên môn cho các chủ nhiệm đề tài trong quá trình thực hiện. Quan trọng là họ đánh giá theo sản phẩm cuối cùng, không quan tâm nhà khoa học chi tiêu thế nào, có bao nhiêu chuyên đề, hay hóa đơn chứng từ làm sao.

Nếu các hội đồng khoa học khác cũng làm theo cách tương tự Nafosted, tôi tin người ta sẽ tin tưởng hơn vào chất lượng các hội đồng và giá trị thực chất của các đề tài khoa học.

- Ngành Khoa học và Công nghệ được kỳ vọng "đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới" theo tinh thần Nghị quyết 57. Điều gì khiến ông trăn trở nhất, và ông gửi gắm gì vào ngành trên chặng đường này?

- Trong 40 năm đổi mới, về cơ bản nền khoa công nghệ Việt Nam đã chuyển sang kinh tế thị trường, tiệm cận thông lệ quốc tế và đã có được một số thành tựu quan trọng nhất định, đặt nền móng cho việc phấn đấu thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước phát triển thu nhập cao vào năm 2045.

Tuy nhiên, điều chúng tôi đã cố gắng làm nhưng chưa thành công là một hệ thống cơ chế chính sách ưu đãi và trọng dụng những người làm khoa học. Ở Việt Nam, đầu tư của Nhà nước và xã hội cho khoa học còn khiêm tốn, nên đời sống của những người làm khoa học còn khó khăn.

Đây là một trong các nguyên nhân khiến số lượng người làm khoa học ở Việt Nam thấp. Nghị quyết 57 đặt ra mục tiêu là phải phân đấu ở mức cao hơn 12 người trên một vạn dân, nhưng với chính sách đãi ngộ và trọng dụng như hiện nay, việc đạt con số đó vô cùng khó.

Tôi hy vọng chế độ đãi ngộ nhà khoa học sẽ được cải thiện, trong đó đãi ngộ quan trọng nhất là bản thân họ được quyền tự chủ cao, hưởng lợi ích công bằng từ sản phẩm khoa học của mình, bằng việc giao quyền sở hữu, quyền định giá tài sản trí tuệ để họ có thể chuyển nhượng kết quả nghiên cứu cho doanh nghiệp, hay góp vốn vào doanh nghiệp bằng tài sản trí tuệ của mình, hoặc được thành lập và điều hành doanh nghiệp khoa học và công nghệ để tự phát triển sản phẩm đem lại lợi nhuận cho họ và cơ quan chủ trì. Đây là động lực cần thiết để phát huy tiềm lực của ngành, đem lại giá trị đóng góp lớn hơn nữa cho sự nghiệp phát triển đất nước.

Viên Minh - Mỹ Hạnh

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn