Cú hích sống còn từ Luật Di sản văn hóa sửa đổi, Bài cuối: Bước ngoặt thể chế, trao quyền cho cộng đồng

TP - Trao đổi với Tiền Phong, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Ðạo Cương nhận định, di sản văn hóa là một dạng tài sản đặc biệt, vô giá nhưng lại dễ chịu tổn thương, thậm chí bị hủy hoại do những tác động từ thiên nhiên, con người và bối cảnh, xu hướng xã hội. Những vấn đề liên quan đến việc xử lý hài hòa giữa bảo tồn di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội luôn là thách thức lớn nhất và thường trực.
![]() |
Khu di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới Tràng An là một trong những điển hình về quản lý, bảo vệ và phát huy di sản. Ảnh: Hoàng Mạnh Thắng |
Gần đây, một số vụ việc đáng tiếc về xâm hại di sản xảy ra ở một số địa phương. Nhiều người cho rằng, trách nhiệm thuộc về Bộ VHTTDL, trong khi thực tế công tác quản lý di sản đã được phân cấp rõ ràng. Vậy, theo Thứ trưởng, cơ chế phân cấp hiện nay đã thực sự hợp lý chưa, đặc biệt vẫn còn hiện tượng buông lỏng quản lý ở cấp cơ sở?
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa trước thời điểm Luật Di sản văn hóa năm 2024 (Luật số: 45/2024/QH15, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025) không quy định rõ về trách nhiệm quản lý nhà nước cho các địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa ở địa phương, không quy định trách nhiệm quản lý của UBND cấp tỉnh, chính quyền địa phương các cấp trong việc triển khai thực hiện Luật Di sản văn hóa.
Qua quá trình thực thi pháp luật và tổng kết thực tiễn, những bất cập về phân cấp cơ bản đã được Bộ VHTTDL phối hợp với các bộ, ban, ngành và các địa phương tổng hợp, phân tích làm rõ, đề ra hướng giải quyết tổng thể trong Luật mới.
![]() |
Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Ðạo Cương |
Về trách nhiệm của địa phương, khoản 4 Điều 90 đã quy định rõ trách nhiệm của UBND cấp tỉnh - chịu trách nhiệm toàn diện về hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị đối với di sản văn hóa trên địa bàn được đưa vào các danh mục kiểm kê, di sản văn hóa trên địa bàn được xếp hạng, ghi danh, công nhận trong các danh mục của quốc gia, các danh sách, danh mục của UNESCO theo quy định của Luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan và quy định, hướng dẫn của UNESCO; cùng nhiều trách nhiệm theo thẩm quyền về ban hành quy chế phối hợp quản lý, bảo vệ.
Liên quan đến việc thực hiện Công ước 1972 về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới mà Việt Nam là quốc gia thành viên, yêu cầu chung là phải bảo vệ nghiêm ngặt vùng lõi của di sản. Trên thực tế, đã đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương nhưng việc bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam là trách nhiệm của Bộ VHTTDL và của toàn xã hội nên rất cần phát huy tốt cơ chế phối hợp và tham vấn chuyên môn…
Các vụ việc xâm phạm di sản sau khi được phát hiện, xử lý dường như vẫn chưa đủ sức răn đe dẫn đến nguy cơ tái diễn. Trong bối cảnh Luật Di sản văn hóa năm 2024 đã được Quốc hội thông qua, theo ông, cần có những cơ chế nào đủ mạnh để ngăn chặn kịp thời vi phạm, tránh tái diễn những hành vi xâm hại di sản?
Về chế tài ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm xâm hại di sản, Luật Di sản văn hóa năm 2024 đã quy định rõ về 8 nguyên tắc trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa (Điều 6), quy định cụ thể về 11 hành vi bị nghiêm cấm (Điều 9). Đây là những quy định được xác lập từ yêu cầu thực tiễn công tác quản lý di sản văn hóa.
Cùng với đó là việc bổ sung, hoàn thiện chế tài đảm bảo thống nhất và đồng bộ với quy định của Bộ luật Hình sự - tại Điều 345 về hành vi vi phạm gây hư hại, hủy hoại tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh cấp tỉnh, cấp quốc gia hoặc quốc gia đặc biệt theo các mức độ xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù (khung từ 6 tháng đến 3 năm, hoặc từ 3-7 năm).
Đó là một trong những sự đảm bảo về chế tài cần thiết nhằm ngăn chặn kịp thời vi phạm, tránh tái diễn những hành vi xâm hại di sản văn hóa.
Luật Di sản văn hóa năm 2024 được kỳ vọng tháo gỡ những bất cập về quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản, di tích. Xin Thứ trưởng chia sẻ rõ hơn những điểm mới và tác động tích cực mà luật sẽ mang lại trong thực tế?
Luật Di sản văn hóa đã cụ thể hóa từ ba chính sách được Chính phủ và Quốc hội thông qua trong Dự án xây dựng Luật Di sản văn hóa: hoàn thiện các quy định về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; hoàn thiện các quy định về thực hiện phân cấp, phân quyền quản lý nhà nước về di sản văn hóa phù hợp với thực tiễn; tăng cường cơ chế, chính sách thúc đẩy xã hội hóa và nâng cao hiệu quả huy động nguồn lực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Luật Di sản văn hóa 2024 gồm 9 chương, 95 điều, tăng 2 chương, 22 điều so với Luật hiện hành (7 chương, 73 điều) đã thể chế hóa đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về văn hóa và di sản văn hóa, khắc phục, tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, với những điểm mới, thay đổi mang tính đột phá, tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống văn hoá, xã hội và kinh tế của đất nước, tạo nên bước chuyển cơ bản về thế và lực cho sự nghiệp quản lý bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá của cả nước, của các địa phương, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Điều này đáp ứng mục tiêu “phát huy vai trò động lực của văn hóa, thể thao và du lịch đối với sự phát triển bền vững đất nước”.
![]() |
Việt Nam sở hữu kho tàng đồ sộ di tích, danh lam thắng cảnh. Ðồ họa: KIỀU TÚ |
Theo Thứ trưởng, cần làm gì để thay đổi căn bản tư duy và cách tiếp cận của cộng đồng, chính quyền địa phương và các nhà quản lý đối với công tác bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam, để di sản được nhìn nhận là nguồn lực phát triển bền vững, chứ không phải “gánh nặng” của bảo tồn?
Trong hệ thống chuyên ngành, Luật Di sản văn hóa là một trong những Luật được ban hành khá sớm (năm 2001). Luật đã đưa ra tuyên ngôn chính thức về di sản văn hóa của dân tộc, đồng thời quy định rõ về sở hữu đối với di sản văn hóa: “Nhà nước thống nhất quản lý di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn dân; công nhận và bảo vệ các hình thức sở hữu tập thể, sở hữu chung của cộng đồng, sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác về di sản văn hóa theo quy định của pháp luật”. Như vậy, Luật đã quy định rất rõ về các hình thức sở hữu đối với di sản văn hóa, đồng thời cũng chỉ rõ được đặc tính cộng đồng của di sản văn hóa.
Trong các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết Luật, Bộ VHTTDL đã cụ thể hóa từng nội dung nhiệm vụ tại từng Điều, Khoản của Luật Di sản văn hóa năm 2024. Về thẩm quyền: Thủ tướng Chính phủ có 9 nhiệm vụ; Bộ trưởng Bộ VHTTDL có 8 nhiệm vụ; bộ trưởng, thủ trưởng các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức ở T.Ư có 13 nhiệm vụ; chủ tịch UBND cấp tỉnh có 26 nhiệm vụ; giám đốc Sở có 15 nhiệm vụ.
Tuy nhiên, bên cạnh các mặt được, qua thực tiễn công tác cho thấy, một bộ phận người dân, một số cộng đồng, chính quyền địa phương, đôi khi chưa ý thức được rõ hết vị trí, vai trò của di sản văn hóa, như có quan niệm đơn giản cho rằng: Nhà nước xếp hạng di tích quốc gia thì nhà nước phải lo bảo vệ và phát huy giá trị, phải đầu tư kinh phí tu bổ, tôn tạo, duy trì…, từ đó, dẫn đến tâm lý ỷ lại vào nguồn lực của nhà nước, đầu tư từ kinh phí ngân sách, rồi dẫn tới quan niệm hết sức sai lầm khi cho rằng bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa là “gánh nặng” của bảo tồn.
Luật Di sản văn hóa năm 2024 đã có những quy định cụ thể nhằm thay đổi căn bản và toàn diện về tư duy đối với từng loại hình di sản cụ thể và các chủ thể liên quan.
Với cộng đồng, cần định hướng và nâng cao nhận thức cho họ về vai trò của di sản văn hóa trong đời sống cộng đồng và xã hội. Cộng đồng, với tư cách là chủ thể/đại diện chủ sở hữu di sản văn hóa cần được xác định là trung tâm, là hạt nhân của mọi hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, khai thác và sử dụng di sản văn hóa.
Với chính quyền địa phương và các nhà quản lý cần có bước chuyển mạnh mẽ về tư duy quản lý - trên cơ sở quy định của pháp luật và phân cấp phân quyền, huy động tổng thể các nguồn lực xã hội tham gia vào công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa để từng bước đưa di sản văn hóa thực sự trở thành một nguồn lực phát triển bền vững.
Một số điểm mới cốt lõi của Luật Di sản Văn hóa 2024:
1.Quy định cụ thể việc xác lập di sản văn hóa theo từng loại hình sở hữu toàn dân, sở hữu chung, sở hữu riêng; 2.Quy định chính sách của Nhà nước trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; 3. Hoàn thiện các hành vi bị nghiêm cấm để bảo đảm chính xác, đầy đủ hơn, làm cơ sở cho việc hướng dẫn thực hiện, kiểm tra, xử lý vi phạm trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; 4. Xác định cụ thể các trường hợp điều chỉnh ranh giới khu vực bảo vệ I, khu vực bảo vệ II của di tích, khu vực di sản thế giới và vùng đệm của di sản thế giới; 5. Quy định cụ thể việc sửa chữa, cải tạo, xây dựng công trình, nhà ở riêng lẻ trong và ngoài khu vực bảo vệ di tích; 6. Quy định về quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, xử lý di vật, cổ vật được phát hiện, giao nộp; 7. Bổ sung Quỹ bảo tồn di sản văn hóa; quy định xã hội hóa, hợp tác công tư trong hoạt động bảo vệ phát huy giá trị di sản văn hóa; 8. Quy định chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu; 9. Bổ sung chính sách nhằm hỗ trợ sự phát triển của hệ thống bảo tàng; 10. Bổ sung quy định cơ quan thanh tra chuyên ngành di sản văn hóa.
Thực tế, di sản và di tích thường gắn liền với cộng đồng. Người dân chính là lực lượng sát cánh với di sản. Bộ VHTTDL có đề xuất nào để khuyến khích sự tham gia sâu rộng hơn của người dân, tổ chức xã hội và tư nhân vào công cuộc bảo vệ di sản?
Vấn đề này được đặt ra thường xuyên ở cả Việt Nam và quốc tế.
Gần đây nhất, Bộ VHTTDL phối hợp với Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam, Trung tâm Di sản thế giới tổ chức Hội thảo “Bảo vệ và phát huy giá trị Di sản thế giới: Tiếp cận dựa vào cộng đồng vì sự phát triển bền vững” tại Hà Nội và có được những kết quả rất tích cực.
Di sản văn hóa là sản phẩm thường gắn với cộng đồng, được sáng tạo, duy trì bởi cộng đồng. Nguyên tắc này cũng đã được chúng tôi đặc biệt chú ý trong quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách về di sản văn hóa. Cụ thể, Luật Di sản văn hóa 2024 đã đưa ra cơ chế cụ thể nhằm khuyến khích, thu hút sự tham gia sâu rộng của người dân, tổ chức xã hội và tư nhân vào hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản.
Luật mới khuyến khích và tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa (Việt Nam đã làm tốt, được UNESCO khen ngợi: Hội An trước đây, Tràng An ngày nay). Cần có chính sách ưu đãi về thuế, ưu đãi vay vốn theo quy định của pháp luật đối với tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa (Điều 87).
Huy động tổ chức, cộng đồng và cá nhân được sử dụng, khai thác di sản văn hóa thông qua các hoạt động cụ thể (Điều 88); xác lập cơ chế cho các bộ, ban, ngành và địa phương thành lập Quỹ bảo tồn di sản văn hóa nhằm san sẻ “gánh nặng” cho ngân sách nhà nước trong hoạt động bảo tồn (Điều 89).
Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!