Qua mỗi số phát sóng của chương trình giao lưu trực tuyến "Những câu chuyện thời hoa lửa" do T.Ư Đoàn chỉ đạo, Báo Thanh Niên thực hiện, thế hệ trẻ ngày nay như được ngược dòng thời gian cùng những nhân chứng lịch sử để chạm vào những ký ức thiêng liêng, để thấy rõ hơn giá trị của hòa bình, của lý tưởng và của tình yêu Tổ quốc.
Và trong số phát sóng thứ 2 diễn ra vào sáng 8.12, các bạn trẻ được gặp gỡ hai con người đã đi qua ngục tối, nhưng trái tim vẫn sáng lên như thuở đôi mươi: đó là ông Trương Thanh Danh và bà Lê Tú Cẩm - những nhân chứng sống của Côn Đảo, của chuồng cọp và của tình yêu không bao giờ có thể xiềng xích.
"Dấn thân vô là phải chịu tù đày"
Tại chương trình, ký ức thời trai trẻ như được sống dậy, ông Danh kể ông sinh trước năm 1940, thời điểm đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, chính vì thế suốt thời niên thiếu đến khi trưởng thành ông luôn phải chứng kiến sự tàn ác của quân địch.
"Nhiều người hỏi tôi: Tại sao chọn đi theo cách mạng? Vì tôi sinh ra vào thời điểm đất nước mình, đồng bào mình như vậy, đi theo cách mạng là đương nhiên rồi. Thanh niên chúng tôi không thể có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào mình", ông Danh nói dứt khoát và mạch lạc từng lời như tinh thần mà tuổi đôi mươi ông chọn theo cách mạng.
Còn vợ ông, bà Lê Tú Cẩm, sinh ra và lớn lên ở trung tâm Sài Gòn. Cuộc sống lúc nhỏ được ba mẹ cưng chiều, đến khi đi học, bà là nữ sinh Trường Gia Long. Nhưng cũng chính tại ngôi trường này, con đường cách mạng của cô nữ sinh thành thị đã bắt đầu.
Bà kể mình đi theo cách mạng một cách rất tự nhiên, nhưng niềm tin và lý tưởng đã hun đúc từ khi còn nhỏ. Từ lúc chứng kiến cha mẹ mình ở trong căn nhà rất chật chội, không có hầm vẫn thiết kế được nơi để nuôi giấu cán bộ; đến những bài hát về cách mạng do người nhạc sĩ mù, bạn của ba, sáng tác và hát, đã in sâu trong tiềm thức của cô học trò tiểu học. Đến khi học ở Trường Gia Long, gặp được những đàn chị, dù đang còn ngồi trên ghế nhà trường, đã tham gia cách mạng; từ đó bà Cẩm cũng theo các chị vào căn cứ và làm cách mạng.
Tham gia giao lưu cùng ông Danh và bà Cẩm, Nguyễn Hoàng Duy, Phó bí thư Đoàn Trường ĐH Công nghiệp TP.HCM, vô cùng xúc động và tự hào. Duy bày tỏ: "Là thế hệ trẻ, khi được nghe kể về những câu chuyện thời hoa lửa anh hùng của các nhân chứng lịch sử, chúng con cảm thấy rất tự hào".
Và Duy đặt câu hỏi: "Trong suốt thời gian tham gia kháng chiến gian khổ đó, có khi nào ông đắn đo hay dao động? Điều gì khiến ông tin rằng sự lựa chọn của mình là đúng đắn?".
Ở độ tuổi đã gần 90, ông Danh vẫn khẳng định rất khảng khái: "Tuổi trẻ của tôi luôn gắn liền với cách mạng, gắn với các chú, các anh làm cách mạng. Nên tôi đi theo con đường cách mạng một cách tự nhiên chứ không có đắn đo gì hết. Cho dù đến khi bị bắt, ở tù và chịu tra tấn rất dã man nhưng chúng tôi luôn giữ gìn khí tiết, bảo vệ đồng bào, đồng chí và tổ chức của mình".
Những người đến cái chết cũng không sợ
Năm 1965, ông Danh bị bắt trong lúc đang đi rải truyền đơn. Đến năm 1967, quá trình công tác, hoạt động của ông Danh trước đó bị lộ, như: phụ trách căn cứ, xây dựng bàn đạp làm cơ sở để chiến đấu, giao liên, đào hầm và liên quan đến mấy trận đánh ở Sài Gòn… nên ông bị tuyên án tử hình.
Hỏi ông: "Đứng trước án tử, ông có sợ không?". Nói về cái chết, nhưng ông chia sẻ rất nhẹ nhàng: "Cũng nhiều người hỏi tôi: Tại sao không khóc? Tại sao không sợ? Nhưng với chúng tôi, chuyện chết chóc và hy sinh là đương nhiên thôi".
Cái chết với những người chiến sĩ cách mạng nhẹ nhàng và đương nhiên đến mức đêm trước khi biết mình ngày mai sẽ bị xử tử, họ vẫn nấu chè và ăn cùng nhau: "Ăn để mai còn chết. Chúng tôi còn chuẩn bị chọn khẩu hiệu nào ngắn để trước khi xử bắn còn có thể hô cho trọn vẹn. Sợ khẩu hiệu quá dài, chưa kịp hô xong đã bị xử tử".
Họ ở trong tù hồn nhiên với cái chết và sẵn sàng hy sinh. Ở bên ngoài, ông kể, chiều 16.11.1967, sau khi báo chí và Đài phát thanh Sài Gòn phát tin thi hành án của ông, Đài phát thanh Giải phóng đã lên tiếng: "Nếu bắn 3 thanh niên yêu nước này thì sẽ bắn mấy tù binh Mỹ". Ngay lập tức trong đêm đó, bên Mỹ điện qua đề nghị ngưng thi hành án. Và sau này, ông bị đày ra Côn Đảo.
Ở nội thành Sài Gòn, trong một lần cùng giao liên ngụy trang vũ khí để giao cho cán bộ, vì bị chỉ điểm nên bà Cẩm bị bắt. Mới 19 tuổi, bà đã bắt đầu trải qua những ngày tháng tù đày và tra tấn tàn bạo.
Bà Cẩm kể: "Ngày nay nhiều bạn trẻ hỏi tôi: "Khi bị bắt, bà có bị đánh không?". Tôi trả lời: "Bắt mà không đánh thì chúng bắt để làm gì. Tụi nó đánh để cấp tốc tìm và bắt thêm nữa, đánh để mình lung lay ý chí, để có thả về thì mình sẽ không dám cũng như không có sức khỏe mà hoạt động nữa".
Cũng đang tuổi 19 như ngày mà bà Cẩm bị bắt và chịu tra tấn dã man, Nguyễn Thị Hẹn, Phó chủ tịch Hội Sinh viên Trường ĐH Công nghiệp TP.HCM, bày tỏ: "Thật trùng hợp khi con hiện nay cũng 19 tuổi, ở thời điểm này, được sống trong hòa bình, nhưng nhiều khi tụi con còn cảm thấy khó khăn, áp lực. Vậy trong những lúc đứng trước lằn ranh sinh tử và những sự tra tấn tàn ác đó, để vượt qua thì chắc hẳn ông bà phải có niềm tin rất lớn. Ông bà đã nuôi dưỡng niềm tin đó như thế nào?".
Bà Cẩm nói: "Đi hết hành trình của mình ở nhà tù, tôi nhận thấy rằng yếu tố quan trọng nhất đó là tập thể. Vai trò của tập thể trong đấu tranh ở nhà tù là rất lớn, mặc dù có những lúc mình đấu tranh cá nhân, chẳng hạn khi tra tấn thì chỉ có một mình. Nhưng lúc trả về phòng giam rồi, anh em, đồng đội cùng san sẻ, quan tâm, tiếp thêm niềm tin và sức mạnh. Và rồi mình lại tiếp tục đấu tranh".
Chuyện tình từ trong bom đạn
Một điều rất đặc biệt và cũng thật đẹp, khi trong những gian khổ và bom đạn của chiến tranh, ông Danh và bà Cẩm đã gặp được nhau. Cảm mến trước một người con gái sinh ra ở thành thị mà dám hy sinh, bỏ gia đình đi theo cách mạng, ông Danh đã thầm thương trộm nhớ bà Cẩm. Để rồi, khi ở trong ngục tù, ông làm chiếc nhẫn từ gáo dừa và chờ đợi, hy vọng ngày được trở về để cầu hôn người mình yêu.
Chiếc nhẫn bằng gáo dừa trong ngục tù cũng thấy được niềm tin của người chiến sĩ cách mạng luôn chiếu sáng trong cả những tháng ngày tăm tối nhất. Để rồi từ trại giam Chí Hòa, đến án tử hình rồi những ngày ở ngục tù Côn Đảo, chiếc nhẫn gáo dừa đó vẫn vẹn nguyên đến ngày hòa bình lập lại được đeo vào tay của người con gái ông yêu, cũng từng là đồng đội của mình.
Từ câu chuyện tình yêu đẹp như huyền thoại của mình, bà Cẩm nhắn gửi đến các bạn thanh niên: "Thế hệ của chúng tôi luôn gắn tình yêu với lý tưởng. Tình yêu mà gắn với lý tưởng thì sẽ rất bền chặt. Khi có cùng lý tưởng, cùng định hướng sống, nền tảng đó rất dễ dung hòa, và có thể bỏ qua những cá tính riêng, cùng nhau vượt qua được khó khăn, thử thách".
Theo bà Cẩm, lý tưởng không phải chỉ là cách mạng. Lý tưởng là lý trí, mục đích sống của mình. Lý tưởng là để biết rằng ngày nay tôi sống là vì phải giỏi một cái gì đó. Giỏi không phải cho tôi mà để làm cho đất nước, xã hội và cả cộng đồng cùng được hưởng những việc mà tôi đang làm giỏi. "Nếu mình có lý tưởng như vậy, gặp một người cũng cùng định hướng, có thể họ khác ngành nghề, nhưng chắc chắn sẽ đồng cảm và đi được cùng nhau lâu bền", bà Cẩm gửi gắm.













