Từ sự mong manh của nghề nuôi tôm hùm trước thiên tai ở vùng Sông Cầu, Phú Yên cũ (nay thuộc tỉnh Đắk Lắk), chuyên gia đã hiến kế phương án thích ứng, phát triển nghề nuôi bền vững.
Việc quy hoạch, đưa vùng nuôi tôm hùm ra vùng biển hở là giải pháp cần được ưu tiên, dù có nhiều thách thức về kỹ thuật và suất đầu tư.
Đưa lồng nuôi ra mặt biển, tại sao không?
Tiến sĩ Võ Văn Nha, Viện trưởng Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III, cho hay Sông Cầu, tỉnh Đắk Lắk (Phú Yên cũ) có vịnh Xuân Đài và đầm Cù Mông là vùng nuôi tôm hùm bằng lồng tập trung với số lượng lồng bè nuôi nhiều hàng đầu Việt Nam.
Nơi đây thuận lợi cho phát triển nuôi lồng bởi điều kiện tự nhiên, thiên nhiên ưu đãi.
Nhưng thách thức của vùng là mưa bão, lũ lụt thường xảy ra gây ngọt hóa vùng nuôi, làm tôm hùm chết hàng loạt, thiệt hại cực lớn như trong đợt mưa lũ vừa qua. Chỉ một trận lũ đã quét sạch cả trăm ngàn lồng nuôi, thiệt hại tới 3.000 tỉ đồng.
Để thích ứng thiên tai, phát triển nghề nuôi tôm hùm bền vững, tiến sĩ Nha cho rằng cần nghiên cứu phương án đưa vùng nuôi ra vùng biển hở bên ngoài đầm Cù Mông và vịnh Xuân Đài.
Việc đưa lồng nuôi ra xa bờ, ngoài các vịnh, đầm, môi trường nước ổn định hơn, ít bị ảnh hưởng bởi nước ngọt do lũ lụt.
Ở vùng biển hở, nhiệt độ nước ổn định, ôxy hòa tan tốt, chất hữu cơ trong nước ít nên tôm ít bị bệnh hơn, đặc biệt là bệnh đen mang. Ngoài ra, không gian nuôi là vùng biển mở tránh được hiện tượng quá tải vùng nuôi, giảm lây lan dịch bệnh như nuôi ở trong đầm, vịnh gần bờ.
Thách thức của phương án này là rủi ro cao về sóng to, dòng chảy mạnh làm lồng, dây neo dễ vỡ đứt, gây thất thoát tôm, hay làm tôm bị sốc, ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển.
Ngoài ra, chi phí đầu tư lớn, khó khăn trong quản lý, bảo vệ, chăm sóc tôm nuôi khi thời tiết bất lợi.
"Việc nuôi tôm hùm ngoài các vịnh, đầm là cách tốt để tránh rủi ro từ lũ lụt và mưa lớn. Nhưng cần phải đầu tư lồng, dây neo, hạ tầng kỹ thuật đảm bảo chất lượng.
Điều này phù hợp với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác hay những hộ nuôi lớn, có kinh nghiệm, có khả năng đầu tư" - tiến sĩ Nha nhận định.
Quy hoạch tốt vùng nuôi, chuẩn hóa tiêu chí nuôi trồng
Ngoài ra, chuyên gia cho rằng cần chuẩn hóa vùng nuôi bằng quy hoạch và xây dựng tiêu chí nuôi trồng để hướng tới nuôi biển bền vững. Cơ quan quản lý cần lập bản đồ chi tiết khu vực được phép nuôi và khu vực nuôi luân canh.
Quy định mật độ nuôi tối đa để kiểm soát giới hạn số lồng trên một đơn vị diện tích. Giảm tình trạng nuôi tự phát, xử lý nghiêm việc phát sinh lồng ngoài quy hoạch để tránh "quá tải". Hoàn thiện khung pháp lý, bộ tiêu chuẩn quốc gia về nuôi tôm hùm như: lồng nuôi, vật liệu, neo, bố trí lồng, hệ thống xử lý chất thải biển.
Quan trắc, cảnh báo môi trường thường xuyên, kết nối sâu rộng và truyền thông nhanh để người nuôi nhận được cảnh báo sớm. Tăng cường kiểm soát thị trường và chuỗi cung ứng nhằm giám sát dịch bệnh từ hoạt động vận chuyển giống, thức ăn cho tôm hùm. Thúc đẩy chuỗi bảo quản, chế biến để giảm áp lực tiêu thụ mùa mưa bão.
Bên cạnh đó cần xây dựng hạ tầng chống thiên tai, tránh trú bão cho các hoạt động nuôi tôm hùm, lồng bè, có phương án xử lý khi có bão mạnh. Thúc đẩy ứng dụng các mô hình dự báo môi trường, nuôi bền vững hay kinh tế tuần hoàn trong nuôi tôm hùm, đồng thời hỗ trợ bảo hiểm rủi ro cho nghề nuôi biển nói chung và nuôi tôm hùm nói riêng.
Về giải pháp khoa học kỹ thuật và công nghệ, để thích ứng và phát triển nghề nuôi tôm hùm bền vững, cần đầu tư hệ thống lồng bè nuôi bằng vật liệu chịu va đập, dây neo, chùm neo đảm bảo. Tầng mặt, đáy và xung quanh lồng được thiết kế phù hợp để có thể nước lưu thông tốt, đồng thời có thể "đánh sập" hay "thoát bẩn" khi cần.
Nghiên cứu và ứng dụng mô hình nuôi đa tầng, nuôi ghép, hay mô hình nuôi tôm hùm lồng kết hợp du lịch biển. Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ quản lý thông minh trong nuôi tôm hùm: định lượng thức ăn để giảm dư thừa, giám sát môi trường cơ bản (độ mặn, nhiệt độ, pH, oxy hòa tan), giám sát tác nhân gây bệnh, thu gom chất thải.















