Luật Phòng bệnh vừa được Quốc hội thông qua hôm 10-12 được xem là bước ngoặt quan trọng, nhằm khắc phục khoảng trống pháp lý tồn tại nhiều năm và đưa công tác dự phòng trở thành trụ cột thực sự của hệ thống y tế.
Từ đó để người Việt không chữa bệnh khi quá muộn, chi phí y tế cao, tránh dần chuyện nhiều người vừa về hưu đã ốm...
Chính vì vậy, những điểm mới trong Luật Phòng bệnh là chuyển trọng tâm từ "chữa bệnh" sang "phòng bệnh", hoàn thiện cơ sở pháp lý cho công tác phòng bệnh, hướng tới nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc và tuổi thọ người Việt Nam thông qua việc kiểm soát hiệu quả bệnh tật và các yếu tố nguy cơ.
Bước ngoặt trong quan điểm chăm sóc sức khỏe
Trao đổi với báo chí chiều 11-12, ông Dương Chí Nam, Phó cục trưởng Cục Phòng bệnh, Bộ Y tế, nói điểm mới quan trọng nhất là thay đổi trọng tâm, thay vì chỉ "phòng chống bệnh truyền nhiễm" như luật trước đây sang phòng bệnh nói chung, trong đó có cả các bệnh không lây nhiễm đang gia tăng rất mạnh như ung thư, tiểu đường, tim mạch...
Nhìn lại sau hơn 17 năm thi hành, Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 đã góp phần quan trọng trong kiểm soát, ngăn chặn dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy nhiều vấn đề mới đã phát sinh, như gánh nặng bệnh tật không lây nhiễm, rối loạn sức khỏe tâm thần, suy dinh dưỡng, ô nhiễm môi trường và thay đổi hành vi sức khỏe.
Từ việc chỉ quy định phòng chống bệnh truyền nhiễm, Luật Phòng bệnh đã mở rộng phạm vi phòng bệnh. Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết trọng tâm của Luật Phòng bệnh là "chuyển từ chữa bệnh sang chủ động phòng bệnh, lấy người dân làm trung tâm, phòng bệnh suốt đời, phòng bệnh từ sớm, từ xa".
Luật Phòng bệnh bao gồm phòng chống bệnh truyền nhiễm; phòng chống bệnh không lây nhiễm và rối loạn sức khỏe tâm thần; bảo đảm dinh dưỡng trong phòng bệnh; cùng các điều kiện bảo đảm, như nguồn lực, nhân lực, khoa học công nghệ, chuyển đổi số và quỹ phòng bệnh.
"Luật lần này tạo thay đổi căn bản về nhận thức phòng bệnh, cả từ phía người dân lẫn chính quyền. Đây sẽ là cơ sở để chúng tôi đẩy mạnh truyền thông và triển khai các chương trình dài hạn", ông Nam nhận định.
Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (nay là Cục Phòng bệnh, Bộ Y tế), cho rằng luật mới ra đời thể hiện quan điểm phòng bệnh từ sớm, từ xa, toàn diện và công bằng. Đồng thời, thực hiện nội dung quan trọng của nghị quyết số 72 của Bộ Chính trị.
Theo ông Phu, trước đây Việt Nam có Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989, văn bản bao quát nhiều lĩnh vực nhưng ở mức rất sơ khai. Sau đó, luật được tách thành Luật Khám bệnh, chữa bệnh và Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007.
Tuy vậy, lĩnh vực phòng bệnh nói chung vẫn thiếu một cơ sở pháp lý thống nhất, đặc biệt với những vấn đề nổi lên mạnh mẽ như bệnh không lây nhiễm, sức khỏe tâm thần, dinh dưỡng hay chăm sóc sức khỏe suốt vòng đời.
Luật Phòng bệnh mới đã lấp đầy khoảng trống này. Ông Phu nhận định điểm tiến bộ lớn nhất là luật bao trùm cả bệnh truyền nhiễm lẫn không lây nhiễm, đồng thời kết nối các yếu tố môi trường, an toàn thực phẩm, sức khỏe người lao động... với các quy định hiện có trong luật chuyên ngành khác.
Cơ hội để phòng bệnh chủ động
Theo Bộ Y tế, Luật Phòng bệnh sẽ hướng đến việc phòng bệnh từ sớm, từ xa thông qua nhiều hoạt động. Trước tiên, đó là việc khám sức khỏe định kỳ và khám sàng lọc miễn phí. Đây cũng là bước đột phá quan trọng nhằm thể chế hóa nghị quyết 20 và nghị quyết 72.
Để bảo đảm nguồn kinh phí và tính khả thi, Chính phủ đã hoàn thiện quy định về đa dạng hóa nguồn lực, gồm ngân sách nhà nước, xã hội hóa và đặc biệt là quỹ bảo hiểm y tế. Theo đó, quỹ bảo hiểm y tế chi trả chi phí khám sức khỏe định kỳ, khám sàng lọc miễn phí theo lộ trình và khả năng cân đối của quỹ.
Về việc khám sàng lọc miễn phí, khám sức khỏe định kỳ toàn dân, PGS.TS Vũ Văn Giáp, Phó giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, cho hay hiệu quả của sàng lọc sớm không chỉ nằm ở tỉ lệ sống cao hơn mà còn ở việc giảm chi phí điều trị và giảm gánh nặng cho hệ thống y tế.
"Cùng một thể bệnh nhưng nếu phát hiện sớm, người bệnh có thể được điều trị khỏi hoàn toàn. Phát hiện muộn, cơ hội sống giảm mạnh và chi phí điều trị tăng gấp nhiều lần", ông Giáp nói. Theo ông, Luật Phòng bệnh trong giai đoạn tới cần quy định rõ việc sàng lọc và phát hiện sớm bệnh mạn tính, để cơ quan bảo hiểm có cơ sở chi trả, giúp người dân được tiếp cận sớm hơn với dịch vụ y tế dự phòng.
"Ở các nước phát triển như Mỹ, Úc, châu Âu, sàng lọc tập trung vào nhóm nguy cơ cao thay vì toàn dân nhằm đảm bảo hiệu quả và chi phí. Việt Nam cũng cần hướng đến cách tiếp cận này thông qua sàng lọc sớm ở nhóm có nguy cơ như hút thuốc, người cao tuổi, người có tiền sử phơi nhiễm với khói bụi hoặc hóa chất độc hại", ông Giáp bày tỏ.
Ông Trần Đắc Phu cũng cho rằng luật đặt trọng tâm vào việc phòng bệnh từ sớm và từ xa. Cụ thể, khám sức khỏe định kỳ cho toàn dân, phát hiện sớm bệnh mạn tính, tiêm chủng đầy đủ, giám sát yếu tố nguy cơ... là các biện pháp cốt lõi giúp giảm mắc bệnh, giảm nhập viện và giảm tử vong.
Theo ông Phu, phòng bệnh nên theo 4 cấp độ: phòng các yếu tố nguy cơ - giảm mắc bệnh - giảm mức độ nặng đến giảm tử vong. Đây chính là cách tiếp cận tối ưu để giảm gánh nặng cho hệ thống y tế và xã hội.
Nhà nước bảo đảm kinh phí cho công tác phòng bệnh
Một điểm đột phá được cộng đồng y tế quan tâm là Nhà nước bảo đảm kinh phí cho công tác phòng bệnh, thay vì để các đơn vị dự phòng đối mặt với khó khăn theo cơ chế tự chủ như trước. Luật cũng quy định quỹ phòng bệnh, tạo nguồn lực ổn định, chủ động và linh hoạt hơn khi ứng phó nguy cơ dịch bệnh hoặc triển khai chương trình dự phòng quy mô lớn.
Ông Dương Chí Nam chia sẻ Luật Phòng bệnh vừa được Quốc hội thông qua là lần đầu tiên đưa hoạt động tiêm chủng chiến dịch chủ động vào luật. Đây được xem là bước ngoặt quan trọng để Việt Nam xử lý các "khoảng trống miễn dịch" và chủ động ứng phó nguy cơ dịch bùng phát trở lại.
Theo ông Nam, từ trước đến nay, chương trình tiêm chủng của Việt Nam chủ yếu dựa vào tiêm chủng mở rộng thường xuyên. Tỉ lệ tiêm đạt cao như vắc xin sởi đạt 90 - 95%, nhưng vẫn xuất hiện các chu kỳ dịch 5 năm một lần do tích lũy ở nhóm chưa được tiêm, khiến cộng đồng có khoảng trống miễn dịch.
"Dù tỉ lệ phủ vắc xin cao nhưng hằng năm vẫn còn khoảng 5 - 10% trẻ chưa được tiêm. Tích lại nhiều năm sẽ tạo ra nguy cơ bùng phát dịch, như sởi. Vì vậy phải có các chiến dịch tiêm chủng, do Nhà nước chủ động tổ chức và bố trí ngân sách", ông Nam nói.
Cũng theo lãnh đạo Cục Phòng bệnh, bên cạnh các vắc xin đang sử dụng cho trẻ em và phụ nữ có thai, Bộ Y tế đang nghiên cứu bổ sung một số vắc xin mới vào chương trình tiêm chủng mở rộng giai đoạn đến năm 2030.
"Chúng tôi sẽ phối hợp các viện, các tổ chức quốc tế để đánh giá, thử nghiệm và lựa chọn những vắc xin phù hợp về hiệu quả cộng đồng và khả năng cung ứng. Khi đạt tiêu chí, Nhà nước sẽ cấp ngân sách để triển khai rộng rãi", ông Nam cho biết.
Một số vắc xin đang từng bước triển khai ở quy mô nhỏ trước khi mở rộng toàn quốc như vắc xin phế cầu bắt đầu triển khai từ tháng 2 năm nay tại một số tỉnh; vắc xin phòng HPV dự kiến đưa vào chương trình từ năm 2026 và vắc xin phòng cúm sẽ triển khai vào khoảng năm 2030.
Theo ông Nam, từ nay đến năm 2030 triển khai quy mô nhỏ trước khi đánh giá hiệu quả, ngân sách của từng địa phương và khả năng đáp ứng trước khi nhân rộng.
