Mới đây, Cục Hành chính tư pháp (Bộ Tư pháp) vừa có văn bản gửi Sở Tư pháp TP.HCM đề nghị xác minh thông tin về việc cấp giấy xác nhận "độc thân" cho ông Chiêm Quốc Thái khi đang còn hôn nhân hợp pháp với bà V.T.H.N..
Vụ việc đang được dư luận quan tâm. Vậy thủ tục cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân như thế nào và hậu quả khi cấp giấy sai sẽ được xử lý ra sao?
Khi nào cần xác nhận tình trạng hôn nhân?
Luật sư Lê Văn Hoan (Đoàn luật sư TP.HCM) cho rằng theo điều 22 nghị định 123/2015 được sửa đổi, bổ sung bởi nghị định 87/2020, nghị định 104/2022 và nghị định 07/2025 thì người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nộp tờ khai theo mẫu quy định.
Trường hợp yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nhằm mục đích kết hôn thì người yêu cầu phải đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã có vợ hoặc chồng nhưng đã ly hôn hoặc người vợ hoặc chồng đã chết thì phải xuất trình hoặc nộp giấy tờ hợp lệ để chứng minh như bản án (quyết định) ly hôn hoặc giấy chứng tử...
Trường hợp yêu cầu cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để sử dụng vào mục đích khác, không phải để đăng ký kết hôn, thì người yêu cầu không phải đáp ứng điều kiện kết hôn; trong giấy xác nhận tình trạng hôn nhân phải ghi rõ mục đích sử dụng, không có giá trị sử dụng để đăng ký kết hôn. Số lượng giấy xác nhận tình trạng hôn nhân được cấp theo yêu cầu.
Trên cơ sở các thông tin được cung cấp, cơ quan đăng ký hộ tịch tra cứu thông tin về tình trạng hôn nhân của người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân trên hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh thông qua kết nối với Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Trường hợp không tra cứu được do chưa có thông tin trong cơ sở dữ liệu thì cơ quan đăng ký hộ tịch phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện việc xác minh.
Đến lúc chuyển từ "cam đoan" sang "dữ liệu"
Theo luật sư Vũ Thị Hồng Hạnh, hiện nay theo nghị định 123/2015/NĐ-CP và thông tư 04/2020/TT-BTP, giấy xác nhận tình trạng hôn nhân được UBND cấp xã nơi cư trú cấp dựa trên hồ sơ gồm tờ khai theo mẫu, giấy tờ tùy thân và các chứng cứ về tình trạng hôn nhân nếu có.
Trường hợp người dân từng cư trú nhiều nơi, họ phải tự chứng minh tình trạng hôn nhân tại các địa phương trước đó. Nếu không chứng minh được, UBND xã gửi văn bản xác minh; nếu sau 20 ngày không có phản hồi, người dân được phép cam đoan để được cấp giấy.
Theo luật sư Hạnh, cơ chế "tự khai - tự cam đoan" từng được đánh giá là linh hoạt và phù hợp trong bối cảnh Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn khó khăn khi quản lý hộ tịch chưa đồng bộ, hồ sơ giấy tờ dễ thất lạc do thiên tai, chiến tranh hay hỏa hoạn.
Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, khi hệ thống hộ tịch điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã được số hóa, việc tiếp tục dựa vào cam đoan dễ dẫn đến gian lận, lạm dụng và không còn phù hợp.
Cũng theo luật sư Hạnh, từ vụ việc của ông Chiêm Quốc Thái, đã đến lúc cần cải cách toàn diện quy trình cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, hướng tới minh bạch, hiện đại và dựa trên cơ sở dữ liệu đồng bộ. Các cơ quan chức năng cần liên thông dữ liệu giữa cơ sở dữ liệu dân cư, hệ thống hộ tịch điện tử và đăng ký kết hôn.
Khi đó công chức hộ tịch chỉ cần tra cứu dữ liệu quốc gia trước khi cấp giấy. Hệ thống sẽ tự động xác minh lịch sử cư trú, kết hôn, ly hôn và tình trạng hôn nhân hiện tại. Đây là cơ hội để chuyển từ việc "tin vào cam đoan" sang "tin vào dữ liệu", vừa đảm bảo quyền lợi cho công dân, vừa tăng cường trách nhiệm quản lý của cơ quan nhà nước.
Việc số hóa và liên thông dữ liệu không chỉ giúp ngăn chặn việc cấp giấy sai mà còn đảm bảo quyền lợi pháp lý cho công dân, tránh các hệ lụy từ kết hôn trùng lặp, tranh chấp tài sản hay quyền lợi con ngoài giá thú. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để tăng cường trách nhiệm của cán bộ, công chức trong quá trình quản lý hộ tịch, giảm thiểu rủi ro pháp lý.
Chỉ khi hệ thống quản lý tình trạng hôn nhân được số hóa toàn diện, minh bạch và có trách nhiệm, xã hội mới ngăn chặn triệt để những trường hợp lợi dụng kẽ hở pháp luật, bảo đảm quyền lợi cho công dân và uy tín của cơ quan nhà nước.














