Nhảy đến nội dung
 

Bỏ hình thức đình chỉ học tập, giáo viên sẽ làm gì với học sinh cá biệt?

Việc bỏ hình thức đình chỉ học gây ra lo lắng khi ở đâu đó, nhưng quan niệm kỷ luật thì phải răn đe, trừng phạt, có khi là tạo ra sự đau đớn, sợ hãi liệu có còn phù hợp?.

Thông tư 19 bỏ hình phạt đình chỉ học, thay bằng viết kiểm điểm - một bước đi nhân văn nhưng cũng còn nhiều ý kiến tranh luận về hiệu quả răn đe. 

Sau phần 1 của buổi tọa đàm trực tuyến: Bộ GD-ĐT: Đình chỉ học chỉ làm đứt gãy quá trình giáo dục, mời quý độc giả theo dõi tiếp phần 2 với sự tham gia của 3 khách mời: Ông Hoàng Đức Minh - Vụ trưởng Vụ Học sinh, Sinh viên (Bộ GD-ĐT); PGS.TS Phạm Mạnh Hà - Chuyên gia tâm lý, ĐH Bách khoa Hà Nội; Ông Nguyễn Văn Hiệp - Hiệu trưởng Trường THCS Hạ Yên Quyết, Hà Nội.

Thực hiện video: Xuân Quý - Huy Phúc - Bạt Tuấn

Nhà báo Diệu Thúy: Dưới góc nhìn tâm lý học đường, việc bỏ đình chỉ học có thể được coi là một bước tiến nhân văn. Ông Hà đánh giá thế nào về những ưu điểm cũng như điều còn đáng lo ngại? 

PGS.TS Phạm Mạnh Hà: Việc bỏ đình chỉ học rõ ràng gây ra lo lắng khi ở đâu đó, giáo viên có thể trở thành đối tượng bị bạo lực.

Vì vậy, nhiều ý kiến muốn thay đổi hay phê phán Thông tư 19. Nhưng dưới góc độ tâm lý giáo dục, chúng ta thấy rằng giáo dục hiện đại ngày nay chú trọng không chỉ đào tạo, bồi dưỡng về mặt trí tuệ mà còn phải phát triển về nhân cách. Để giáo dục tốt cần có kỷ luật, nhưng hiểu thế nào cho đúng về kỷ luật?

Lâu nay, chúng ta vẫn quan niệm rằng kỷ luật thì phải răn đe, trừng phạt. Tức là tạo ra sự đau đớn, sợ hãi để đối tượng chấm dứt hành vi. Khá nhiều người nói ngày xưa, nhờ đòn roi của bố mẹ, hay sự mắng mỏ của thầy cô mà nên người, thành công. 

Vì vậy, khi bỏ đình chỉ học tập - như một hình thức mạnh nhất - cũng làm dấy lên sự lo lắng chung của cộng đồng. 

"Gánh nặng" dường như bây giờ lại đặt lên vai nhà trường - phải thay đổi phương pháp giáo dục, kỷ luật, làm sao vừa mang tính răn đe nhưng vẫn nhân văn, để giúp các em có cơ hội quay lại với những giá trị tốt đẹp, đồng thời nhận ra lỗi lầm cần thay đổi. Đó là vấn đề rất quan trọng. 

Để Thông tư 19 đi vào cuộc sống, cần có một sự thay đổi đồng bộ và nhìn rõ về mục tiêu giáo dục.

Giáo dục kỷ luật không phải là trừng phạt hay thể hiện quyền lực của nhà trường đối với hành vi có lỗi của học sinh, mà là thể hiện được giá trị về mặt nhân văn trong việc giáo dục phục hồi. 

Tức là chúng ta phải làm tốt công tác phòng ngừa, nếu không, sẽ xuất hiện những học sinh vi phạm. Với công tác phòng ngừa, không chỉ nhà tâm lý mà cả thầy cô trong quá trình dạy học cũng có thể đánh giá, phát hiện sớm để hỗ trợ và can thiệp từ đầu; tránh trường hợp học sinh tích tụ bực bội hay vấn đề về hành vi và đến thời điểm bùng phát ra. 

Khi học sinh được hỗ trợ đầy đủ về mặt tâm lý cũng như chăm sóc về mặt xã hội, các em sẽ giảm thiểu hành vi nguy cơ, nhận ra được vấn đề, lỗi sai của mình để thay đổi. 

Bị mất đi một cái quyền răn đe, trừng phạt đó là đình chỉ học tập, giáo viên phải thay đổi bản thân để có phương pháp giáo dục khác thay thế biện pháp đã lỗi thời. 

- Thưa ông Hiệp, ở góc độ là nhà quản lý trường học, khi không còn công cụ đình chỉ học tập nữa, việc quản lý học sinh cá biệt có trở thành “gánh nặng” đối với các thầy cô?

Ông Nguyễn Văn Hiệp: Chúng tôi phải xây dựng đầy đủ hệ thống nội quy đối với học sinh, từ đó sẽ đôn đốc cam kết, kiểm tra tổ chức thực hiện làm sao thật nghiêm túc. Khi có trường hợp phải xử lý kỷ luật, chúng tôi sẽ tìm hiểu rất kỹ và biện pháp trước hết phải là phòng ngừa.

Ví dụ, khi trong lớp có mâu thuẫn, học sinh cần biết cách can ngăn, báo cho ai và xử lý ra sao.

Chúng tôi cũng sẽ có những cách giúp thầy cô phối hợp với cha mẹ học sinh và có thể cả với nhà tâm lý, đặc biệt là với những "ca khó" để giúp học sinh và thầy cô thực sự hiểu cũng như vượt qua được áp lực. 

Việc kỷ luật học sinh chắc chắn sẽ áp lực, nên thầy cô phải nắm bắt rồi chia sẻ, thực hiện đầy đủ các bước và thao tác rất chính xác, chuẩn chỉ. Việc này với thầy cô cũng sẽ gây ra áp lực.  

Thế nhưng, cuối cùng thì sự nhân văn trong giáo dục, trong định hướng sẽ giúp học sinh có suy nghĩ tích cực, đúng đắn và từ đó thực sự kỷ luật cũng chỉ là một biện pháp giáo dục, là cơ hội để giúp các em hoàn thiện bản thân và hướng tới sự tiến bộ để trưởng thành.

- Thưa ông Hoàng Đức Minh, ngoài Thông tư 19, Thông tư 18 về công tác tư vấn học đường cũng vừa được ban hành, song hành để bổ trợ cho Thông tư 19. Ông có thể lý giải mối quan hệ cũng như là sự phối hợp tương tác của 2 thông tư này? 

Ông Hoàng Đức Minh: Hai thông tư này nằm trong chuỗi công cụ quản lý mà Bộ GD-ĐT ban hành để thực hiện nhiệm vụ quản lý giáo dục học sinh, và chúng có tính bổ trợ lẫn nhau.

Thông tư 18 bổ sung vào hoạt động quản lý, giúp có thêm công cụ phân loại, nắm bắt tâm lý, từ đó quản lý hiệu quả hơn. Đây là một tổng hòa các biện pháp hỗ trợ, đặc biệt ở góc độ tâm lý: Nhận biết, phân loại, giải tỏa những tình huống nảy sinh trong quá trình học tập. Nhờ vậy, học sinh được định hướng vào các hoạt động tích cực, giảm nguy cơ rơi vào những hành vi tiêu cực.

Thông tư 19 khi áp dụng các biện pháp kỷ luật cũng mang tính giáo dục, tiếp tục điều chỉnh hành vi. Trong quá trình thực hiện, học sinh vi phạm sẽ được tư vấn, hỗ trợ tâm lý để nhận ra cái sai, sửa đổi và tham gia khắc phục hậu quả.

Thông tư 19 được thực hiện tốt thì hoạt động tư vấn tâm lý trong nhà trường sẽ được củng cố và khẳng định. Thông tư 18 làm tốt cũng sẽ hỗ trợ giảm thiểu những việc phải sử dụng, áp dụng các biện pháp kỷ luật ở Thông tư 19.  

- Theo ông Hà, việc kết hợp giữa kỷ luật và tư vấn tâm lý có tác dụng ra sao trong việc giáo dục học sinh vừa nghiêm khắc vừa nhân văn? 

PGS.TS Phạm Mạnh Hà: Chúng ta thấy rằng mô hình giáo dục Việt Nam đang hướng đến, đặc biệt là qua Thông tư 18, là công tác hỗ trợ, tư vấn tâm lý phải từ giáo dục, truyền thông phòng ngừa.

Trong công tác phòng ngừa, sẽ đẩy mạnh những hoạt động liên quan đến giáo dục kỹ năng sống cũng như truyền thông cho học sinh nhận biết hành vi tích cực hay rủi ro có thể gặp phải trong cuộc sống, giảm đi những hành vi mang tính nguy cơ.

Nếu học sinh gặp khó khăn về tâm lý hoặc xã hội - như bạo lực gia đình hay vấn đề tại địa phương - thì bước thứ hai là tư vấn và hỗ trợ tâm lý. Sau khi được tư vấn hỗ trợ, học sinh vẫn khó học hoặc gặp phải vấn đề nghiêm trọng thì có bước thứ ba là can thiệp trị liệu với các biện pháp đặc thù về tâm lý.

Thông tư 18 là một công cụ rất mạnh giúp lãnh đạo nhà trường cũng như thầy cô giải quyết những vấn đề về hành vi của học sinh. Đó là một yếu tố quan trọng, nhân văn mà nhà trường cần làm - hướng đến sự phát triển không chỉ về trí tuệ, còn về nhân cách, nhân phẩm của học sinh. 

Tuy nhiên, trong nhà trường vẫn có những học sinh cần sự răn đe. Nhưng răn đe không phải làm tổn thương, ngăn chặn hành vi của trẻ. Răn đe theo cách đình chỉ học trước đây thì rất dễ, vì nhà trường đỡ đi một học sinh cá biệt, thầy cô giáo cũng nhẹ nhàng hơn, rồi bạn bè trong lớp và đa số phụ huynh ủng hộ. Nhưng rồi học sinh đó ra ngoài xã hội thì như thế nào, ai dạy các con, rồi gia đình liệu có đủ thời gian để chăm sóc? 

Vì vậy, chúng ta thay vì làm trẻ sợ thì phải giúp trẻ nhận ra và sửa được lỗi. Kỷ luật mà chúng ta đang xây dựng là hướng đến việc trẻ nhận ra lỗi và thay đổi hành vi. Vậy nên, việc làm bản kiểm điểm không có nghĩa là chỉ viết một lá đơn đơn giản mà các em đối mặt được với lỗi lầm của mình, với cảm xúc mà nạn nhân phải đối diện, với hậu quả hành vi. 

Rất nhiều trường học ở nước ngoài có phương pháp kỷ luật phục hồi. Thay vì đình chỉ học, hay biện pháp xử lý mang tính hành chính, họ yêu cầu học sinh phải đối mặt với nạn nhân, với hành vi. Ví dụ khi bôi bẩn lên tường thì phải sơn lại; đánh bạn thì phải đối mặt với nỗi đau của bạn và nhận ra hành vi của mình đã làm tổn thương bạn đến mức độ nào… Cách đó làm cho đứa trẻ nhận ra lỗi và biết cách thay đổi.

Trong giáo dục mà không kỷ luật thì tôi tin rằng rất khó. Chúng ta đừng hiểu nhầm không đình chỉ học là bỏ qua kỷ luật, mà là theo hướng kỷ luật phục hồi, tích cực. Đó là cách vừa đảm bảo được môi trường học tập an toàn cho tất cả trẻ, vừa không làm trẻ nào bị đứt quãng quá trình học tập.

- Đối với học sinh tái phạm nhiều lần, thậm chí yêu cầu viết bản kiểm điểm nhưng không viết, và cả Thông tư 19 lẫn 18 đều không giải quyết được, Bộ GD-ĐT có hướng dẫn gì cho các trường? 

Ông Hoàng Đức Minh: Thực ra thông tư chỉ đưa ra những nguyên tắc, nội dung phương pháp và quy định chung nhất về khen thưởng, kỷ luật, phù hợp với tổng thể các đối tượng, vùng miền, cấp độ. Còn có rất nhiều biện pháp giáo dục khác.

Từ khi học sinh vào lớp đến lúc ra khỏi lớp là một chuỗi hoạt động giáo dục, cho nên không phải mọi việc đều nằm ở Thông tư 19. Trường hợp học sinh cố tình không viết bản kiểm điểm chỉ là một tình huống, và phải có những biện pháp tiếp theo. Bản kiểm điểm gắn với trách nhiệm cam kết của gia đình - vốn ở mức cao nhất của thông tư này, nếu học sinh không thực hiện thì lúc đó giáo viên, giáo viên chủ nhiệm, thậm chí hội trưởng phụ huynh liên lạc, trao đổi yêu cầu gia đình phối hợp.

Thậm chí yêu cầu gia đình cùng học sinh viết bản kiểm điểm tại chỗ để cam kết, nhận lỗi về việc con em mình không thực hiện được đúng quy định. Ban đại diện cha mẹ học sinh cũng có thể kết nối, tạo áp lực, buộc phụ huynh có trách nhiệm phối hợp với nhà trường trong việc điều chỉnh, hỗ trợ con em.

Về những biện pháp quản lý trong nhà trường, các thầy cô đều đã được học, trao đổi, trau dồi trong quá trình quản lý và dạy học. Thông tư này cũng chỉ là một công cụ trong tổng thể với các biện pháp khác. Chắc chắn các thầy cô có nhiều kinh nghiệm và cách ứng xử với những trường hợp như vậy.

- Thưa ông Hà, ở các nước trên thế giới, có mô hình kỷ luật học đường nào vừa đảm bảo tính nhân văn, vừa đủ sức răn đe mà chúng ta có thể học hỏi? 

Trong nhà trường chắc chắn có học sinh có vấn đề đặc biệt cần hỗ trợ can thiệp - dù không nhiều. Đây cũng chính là mấu chốt khiến phụ huynh lo lắng rằng những học sinh như vậy ảnh hưởng nhiều đến con em họ, cũng như môi trường văn hóa trong nhà trường. Vậy xử lý thế nào?

Mọi nền giáo dục, kể cả nơi phát triển nhất như Mỹ, Canada, Úc cũng gặp vấn đề như trên. Tức là trường học nào cũng có những học sinh đặc biệt, nhất là ở độ tuổi vị thành niên "nổi loạn", đang phát triển về nhân cách, trí tuệ. Họ cũng đã chuyển hướng từ kỷ luật răn đe, trừng phạt sang kỷ luật mang tính phục hồi, tích cực.

Một trong những cách họ làm và Việt Nam cũng đang áp dụng là mô hình 3 cấp, gồm đánh giá sàng lọc, hỗ trợ ban đầu, đến tư vấn hỗ trợ và cuối cùng là bước can thiệp. 

Như ở Úc có mô hình phòng can thiệp hành vi. Những học sinh từ chối mọi hoạt động giáo dục của nhà trường, liên tục gây lỗi nghiêm trọng, ảnh hưởng đến thầy cô, bạn bè sẽ được thiết kế riêng một chương trình giáo dục phục hồi thay thế và học trong trường.

Những học sinh này sẽ được đến một phòng hỗ trợ can thiệp hành vi để học chương trình đặc biệt. Trên cơ sở hành vi của đứa trẻ, nhà giáo dục, nhà tâm lý sẽ biết các em đang gặp vấn đề gì, ví dụ kiểm soát hành vi. Khi đó, bên cạnh học văn hóa, các em được học kỹ năng kiểm soát cảm xúc, hành vi của mình.

Nếu các em có vấn đề liên quan đến rối loạn về nhân cách, sẽ có chuyên gia tâm lý hỗ trợ với các bài tập về nhận thức hành vi, tâm lý, và cả thiền.

Mô hình can thiệp hành vi này có thể áp dụng tại Việt Nam. Trẻ không phải rời trường, vẫn được học ở một môi trường phù hợp và được điều chỉnh, trang bị cũng như cung cấp kỹ năng để thay đổi, đồng thời không bị đứt đoạn quá trình học tập. 

- Thưa ông Hiệp, ở vai trò nhà quản lý trường học, theo ông, thầy cô mong muốn được hỗ trợ như thế nào để thực hiện kỷ luật học đường theo hướng mới hiệu quả? 

Ông Nguyễn Văn Hiệp: Với những trường hợp nằm trong khả năng xử lý của giáo viên và nhà trường, chúng tôi luôn phối hợp cùng phụ huynh để hỗ trợ học sinh. Trước hết, thầy cô sẽ giải thích để các em hiểu vì sao một hành vi nào đó không nên thực hiện, bởi nó có thể ảnh hưởng đến bản thân, bạn bè, phụ huynh và cả nhà trường. Đây cũng là một hình thức giáo dục quan trọng.

Còn với những trường hợp nghiêm trọng hơn, nhà trường sẽ liên hệ với các cơ quan chuyên môn, ít nhất là các nhà tâm lý để tư vấn trực tiếp. Thậm chí, đôi khi phải phối hợp với phụ huynh đưa học sinh đi kiểm tra chuyên sâu để có những can thiệp kịp thời cả về mặt tâm lý và y khoa.

- Để kết thúc tọa đàm, các khách mời có thể chia sẻ thông điệp của Bộ GD-ĐT với Thông tư 18 và 19? 

Ông Hoàng Đức Minh: Bộ GD-ĐT đang cùng các bộ ngành tăng cường những giải pháp để chia sẻ, giúp thầy cô vừa thực hiện được hết trách nhiệm nhưng cũng có được sự an toàn. 

Các Thông tư 18 và 19, đặc biệt Thông tư 19 là một sự thay đổi cần thiết và phù hợp trong bối cảnh mới. Chúng tôi hy vọng với tất cả những điều đúng đắn đó và sự cố gắng của các thầy cô, nhà trường, sự chung tay trách nhiệm của cộng đồng và gia đình sẽ giải quyết được tất cả vấn đề vướng mắc hiện nay trong quá trình giáo dục, xây dựng được môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện và hạnh phúc. 

PGS.TS Phạm Mạnh Hà: Giáo dục không phải chỉ là tạo ra những đứa trẻ hoàn hảo mà chấp nhận sự không hoàn hảo và cho các em một cơ hội để phát triển. Giáo dục không chỉ giúp các em trưởng thành, có trí tuệ mà còn trở thành một người có trách nhiệm, biết đồng cảm và có khả năng sửa chữa sai lầm.

Ông Nguyễn Văn Hiệp: Theo tư tưởng giáo dục phương Đông, chúng tôi cho rằng tinh thần "lạt mềm buộc chặt" sẽ giúp các biện pháp giáo dục, kể cả kỷ luật, luôn nằm trong sự kiểm soát và hỗ trợ của thầy cô, cha mẹ và nhà trường.

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn