Ông là một trí thức yêu nước, suốt đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, gần dân, thương dân, liêm khiết và có nhiều cống hiến lớn cho sự phát triển của thủ đô.
1. Ai là người giữ chức Chủ tịch TP Hà Nội khi mới 33 tuổi?
Bác sĩ Trần Duy Hưng sinh ngày 16/1/1912, ở xã Xuân Phương, Hà Nội và trở thành Chủ tịch TP Hà Nội năm 1945, khi ông 33 tuổi.
Theo Cổng thông tin điện tử UBND TP Hà Nội, ngày 30/8/1945 UBND thành phố Hà Nội chính thức thành lập, bác sĩ Trần Duy Hưng được cử làm Chủ tịch sau đó.
Năm 30 tuổi, ông đã trở thành bác sĩ rồi cùng em gái mở một bệnh viện tư tại phố Bông Nhuộm (nay là phố Thợ Nhuộm) để chữa bệnh cứu người. Bệnh viện sau này trở thành cơ sở cứu giúp và che chở cán bộ cách mạng.
Sau lễ Quốc khánh 2/9/1945, bác sĩ Trần Duy Hưng đã được Bác Hồ tìm đến tận tư gia để đề nghị ông trở thành Thị trưởng TP Hà Nội.
Từ năm 1945 tới năm 1954, ông lần lượt trải qua các chức vụ Thứ trưởng Nội vụ, Thứ trưởng Y tế, Phó Chủ tịch Ủy ban Quân chính Hà Nội - người dẫn đầu tiến vào tiếp quản thủ đô hôm 10/10/1954.
2. Vì sao ban đầu ông từ chối khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị làm thị trưởng?
Theo Báo Nhân Dân, sau ngày 2/9/1945 khoảng một tuần, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm nhà bác sĩ Trần Duy Hưng và đề nghị ông làm Thị trưởng Hà Nội. Bác sĩ đã cảm ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh và "đề nghị chọn người khác xứng đáng hơn" với lý do mình chỉ biết khám, chữa bệnh, không quen làm lãnh đạo.
Bác Hồ đã động viên: "Ðiều quan trọng là chú có lòng yêu nước, có các đoàn thể và đồng chí giúp đỡ, lo gì không hoàn thành nhiệm vụ".
Ðược cử làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội trong những ngày toàn quốc kháng chiến, bác sĩ Trần Duy Hưng luôn ở bên Bác Hồ, cùng các đồng chí trong Thành ủy, Ủy ban Hành chính tập hợp các thành phần yêu nước bảo vệ thủ đô.
3. Ông đã giữ chức Chủ tịch thành phố Hà Nội trong bao nhiêu năm?
Bác sĩ Trần Duy Hưng làm Thị trưởng Hà Nội từ ngày 30/8/1945 đến 19/12/1946. Sau đó, ông làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội từ năm 1954 đến năm 1977 rồi nghỉ hưu. Như vậy, tổng thời gian ông đảm trách cương vị này là 25 năm - lâu nhất trong số các Chủ tịch Thành phố Hà Nội từ trước đến nay.
4. Khi đã làm chủ tịch UBND, ông đã đi học thêm chuyên ngành gì tại ĐH Bách Khoa Hà Nội?
Năm 1959, khi có Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, bác sĩ Trần Duy Hưng đã vào học khoa Xây dựng và Kiến trúc. Vì ông nghĩ rằng là một người Chủ tịch thành phố phải nắm được kiến trúc đô thị, giúp định hướng mục tiêu xây dựng Hà Nội.
Ông từng rất thích ý tưởng quy hoạch giữ lại các hồ ở Hà Nội, tạo kênh nối giữa các hồ, vừa giải quyết được việc thoát nước, tạo được môi trường trong lành, vừa giải quyết được vấn đề cảnh quan đô thị. Ông cũng từng ấp ủ tạo một vùng đệm ven Hồ Tây để trồng cây xanh, đường dành cho người đi bộ…
5. Ông từng viết thư xin cho 2 con trai mình tham gia nhập ngũ, đúng hay sai?
Tháng 4/1965, bác sĩ Trần Duy Hưng đã viết thư tay gửi Bộ Quốc phòng và Bộ Tư lệnh Thủ đô, xin cho hai con trai là Trần Quốc Ân (26 tuổi, kỹ sư, đảng viên Tổng cục Địa chất) và Trần Thắng Lợi (16 tuổi, học sinh lớp 9) được nhập ngũ.
Trong thư, ông bày tỏ sự ủng hộ nguyện vọng chính đáng của thanh niên thời chiến, khẳng định quyết tâm “đánh thắng giặc Mỹ”. Sau đó, người con cả Trần Quốc Ân được cơ quan giữ lại vì yêu cầu công tác, còn người con thứ hai Trần Thắng Lợi nhập ngũ, chiến đấu trong lực lượng pháo cao xạ.
Năm 1972, người con trai út Trần Chiến Thắng cũng tình nguyện ra trận, được cha đồng ý và động viên “sống xứng đáng với gia đình, chan hòa với đồng đội”.
6. Ông từng khuyến khích con gái mình làm nghề gì?
Theo lời kể của bà Trần Ánh Tuyết, con gái bác sĩ Trần Duy Hưng với Sài Gòn Giải Phóng, ông là người đầu tiên động viên và khuyến khích bà học sư phạm. Bà còn nhớ mãi lời bố nói: “Con chọn sư phạm là bố ưng nhất, vì ngoài nghề bác sĩ của bố là cứu người thì nghề dạy học là chăm người. Chăm người và cứu người là hai việc rất gắn bó với nhau”.
Trong ngày khai giảng của các trường ở Hà Nội, dù gần hay xa, bác sĩ Trần Duy Hưng đều sắp xếp thời gian đến dự. Khi đến dự lễ, ông không bao giờ đi cổng chính, trống giăng, cờ mở, giới thiệu long trọng mà đi cổng sau và lặng lẽ ngồi ở hàng ghế phía dưới lặng lẽ quan sát.