8 thập kỷ và hành trình từ “thân cô thế cô” đến vị thế trên trường quốc tế

(Dân trí) - Từ chỗ không có tên trên bản đồ chính trị, Việt Nam đã đột phá về phát huy vai trò và củng cố vị thế trên trường quốc tế, hội nhập sâu rộng và chất lượng cao hơn, theo nguyên Đại sứ Phạm Quang Vinh.
Trao đổi với phóng viên Dân trí về những dấu mốc quan trọng của ngoại giao Việt Nam trong chặng đường 80 năm lập nước, nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Phạm Quang Vinh, thành viên Tổ tư vấn chính sách của Thủ tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nhấn mạnh trong chặng đường vô cùng vẻ vang ấy, ngoại giao như một mặt trận chính trong công cuộc giành độc lập, giải phóng dân tộc và phát triển đất nước.
Nguyên Đại sứ Phạm Quang Vinh là người có 40 năm gắn với ngành ngoại giao, có nhiều cơ hội chứng kiến, tham gia đóng góp và đồng hành cùng nhiều sự kiện ngoại giao quan trọng của đất nước. Ông cho rằng, làm ngoại giao “mỗi bước đi là một bước học, một trải nghiệm quý giá”.
Nhớ lại những điều ấn tượng trong suốt quá trình làm việc, nguyên Đại sứ Phạm Quang Vinh kể về giai đoạn khi cùng tham gia xây dựng kịch bản để đưa Hiến chương và bộ máy mới của ASEAN đi vào hoạt động.
“Cá nhân tôi tham gia trực tiếp tham gia xây dựng và thương lượng Hiến chương ASEAN để trình các cấp lãnh đạo cấp cao thông qua. Đó là cả một quá trình tương tác, vận động, có những lúc rất nhiều ý kiến trái chiều, nhưng cũng có khi đạt đồng thuận cao”, ông Vinh kể.
Ông cũng nhắc thời điểm năm 2010 khi tham gia tham vấn trong ASEAN và các nước đối tác để đưa ra quyết định cuối cùng là mời Nga và Mỹ tham gia Cấp cao Đông Á mở rộng. Việc này tạo ra một cấp cao Đông Á mới, như một bộ phận cực kỳ quan trọng trong cấu trúc khu vực mới do ASEAN xây dựng, theo lời vị nguyên Đại sứ.
Còn trong giai đoạn thực hiện nhiệm vụ Đại sứ Việt Nam tại Mỹ, ông Phạm Quang Vinh cũng là người có đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy, thương lượng nhiều nội dung liên quan chuyến thăm lịch sử đầu tiên đến Mỹ của người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng), cũng như 2 chuyến thăm Việt Nam trong cùng một nhiệm kỳ của 2 Tổng thống Mỹ (Tổng thống Barack Obama và Tổng thống Donald Trump).
Trong đó, tại chuyến thăm Việt Nam hồi tháng 5/2016, Tổng thống Obama đã quyết định dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí với Việt Nam, xóa bỏ một trong những rào cản thời kỳ cấm vận.
Tiếp đó, đầu tháng 11/2017, ngay trong năm đầu tiên của nhiệm kỳ, Tổng thống Donald Trump tới Đà Nẵng dự tuần lễ cấp cao APEC và thăm cấp nhà nước Việt Nam, khẳng định giai đoạn phát triển mạnh mẽ trong quan hệ Việt - Mỹ.
Theo nguyên Đại sứ Phạm Quang Vinh, bên cạnh những vấn đề trên bàn đàm phán chính thức, vốn được coi là xương sống cho những quyết định của hai bên, ông còn có nhiều cuộc trao đổi riêng để các bên hiểu nhau hơn, có tiếng nói gần nhau hơn.
“Cá nhân tôi từng có rất nhiều cuộc trao đổi riêng với các quan chức chính quyền Mỹ ở các bộ ngành khác nhau, để bạn hiểu mình hơn, hiểu lập trường của Việt Nam hơn. Câu chuyện chuyến thăm của Tổng Bí thư Việt Nam sang Mỹ hay 2 Tổng thống Mỹ đến Việt Nam có nhiều vấn đề liên quan chính trị, tập quán lễ tân, soạn thảo văn kiện hay vấn đề hợp tác, và nhiều khi những cuộc ngoại giao hậu trường cũng tạo thuận lợi hơn rất nhiều trong các trao đổi, thỏa thuận”, ông Vinh nói.
Điểm lại những dấu ấn của ngoại giao Việt Nam trong 8 thập kỷ từ ngày lập nước, nguyên Đại sứ Phạm Quang Vinh nhắc đến giai đoạn đầu tiên từ 1945 đến 1975, với nhiều dấu mốc quan trọng về những hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh hay việc ký kết những hiệp định quan trọng như Hiệp định Giơ-ne-vơ, Hiệp định Paris.
Tiếp đó, giai đoạn từ 1975 đến 1990, ngoại giao ghi dấu ấn với việc phá vây và mở rộng mặt trận đối ngoại, khởi đầu cho hội nhập quốc tế. Sau thống nhất, Việt Nam đối mặt với bao vây, cấm vận, hậu quả chiến tranh và các vấn đề biên giới nhưng vẫn kiên trì đường lối đối ngoại chính nghĩa.
Các dấu mốc Việt Nam tham gia ASEAN (1995), bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, ký Hiệp định Paris về Campuchia năm 1991 và bình thường hóa quan hệ với Mỹ (1995), theo nguyên Đại sứ Phạm Quang Vinh, là những sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng, đặt nền móng đầu tiên cho quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam.
Ngay sau giai đoạn này, ông cho biết ngoại giao Việt Nam bắt đầu phát huy vị thế và hội nhập sâu rộng. “Trong 15 năm gần đây (từ 2010-2025), Việt Nam có những đột phá về phát huy vai trò và củng cố vị thế trên trường quốc tế, hội nhập sâu rộng và chất lượng cao hơn”, ông Vinh nhận định.
Ông dẫn chứng từ 2007 đến 2009, Việt Nam cùng các nước soạn thảo Hiến chương ASEAN đầu tiên và xây dựng các kế hoạch tổng thể cho Cộng đồng ASEAN, kiến tạo một tầm nhìn mới cho khu vực. Từ khi vào WTO (2006-2007), Việt Nam cũng chứng tỏ có thể phát triển kinh tế trong nước cùng với đổi mới, đồng thời mang lại vị thế và nguồn lực mới cho đất nước.
Đặc biệt, trong vài năm trở lại đây, nguyên Đại sứ Phạm Quang Vinh khẳng định Việt Nam đã có một vị thế mới, năng lực mới và khả năng mới trong hội nhập quốc tế.
Năm 2023 là khoảng thời gian cho thấy thế giới vận động phức tạp với sự cạnh tranh giữa các nước lớn đi kèm với khủng hoảng, cấm vận, thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống), nhưng Việt Nam vẫn giữ được môi trường ổn định.
“Quan hệ Việt Nam với khu vực và các đối tác, đặc biệt là các nước lớn, bao gồm 5 cường quốc là thành viên của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, đều được duy trì, phát triển và mở rộng. Điều này tạo ra một môi trường chiến lược thuận lợi hơn rất nhiều cho an ninh và phát triển kinh tế của Việt Nam, được cả bạn bè quốc tế và khu vực đánh giá cao”, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nhìn nhận.
Ngày nay, bước vào kỷ nguyên mới, Việt Nam đã phát triển ổn định, hội nhập và có vị thế nên định hướng ưu tiên trước hết, theo ông Vinh, là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phục vụ phát triển và xây dựng đất nước; bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Bên cạnh đó, ngoại giao cần tranh thủ mọi nguồn lực để tập trung phát triển kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, tính bền vững, áp dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Cùng với những định hướng trên, đối ngoại cần phối hợp với tất cả các kênh để tạo ra sức mạnh tổng lực trong duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
“Trong bối cảnh quốc tế cạnh tranh nhiều hơn, đan xen thách thức và cơ hội, đối ngoại phải vừa duy trì hợp tác, vừa tránh bẫy cạnh tranh, đồng thời tranh thủ đi tìm cơ hội và nhà đầu tư cho đất nước, lựa chọn đầu tư chất lượng và bền vững”, ông Vinh góp ý.
Theo ông, ngành ngoại giao cần tham mưu cho Đảng, Chính phủ về việc ứng xử với các vấn đề quốc tế như cạnh tranh giữa các nước lớn, vấn đề thuế quan hay khắc phục đứt gãy chuỗi cung ứng… nhằm duy trì tính bền vững, vì an ninh kinh tế gắn chặt với an ninh quốc gia.
Giữ vững nguyên tắc đối ngoại để xây dựng lòng tin và củng cố vị thế của Việt Nam, theo nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, cũng là một định hướng quan trọng. Theo ông, đối ngoại cần vừa làm công tác của mình, vừa là chất xúc tác kết nối các lực lượng trong nước để tranh thủ tối đa thuận lợi và nguồn lực từ bên ngoài.
Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 8,3-8,5% trong năm 2025 và tăng trưởng 2 con số giai đoạn tiếp theo, và ngoại giao kinh tế, là một trong những động lực quan trọng góp phần thúc đẩy mục tiêu đầy thách thức này.
Để nâng cao hiệu quả của ngoại giao kinh tế, theo nguyên Đại sứ Phạm Quang Vinh, trước hết và trọng yếu nhất vẫn là đổi mới từ trong nước bằng cách nâng cao năng lực nền kinh tế, nâng cao hiệu quả quản trị và thúc đẩy động lực phát triển.
Với mục tiêu tăng trưởng đạt hai con số và 2 mục tiêu 100 năm vào năm 2030, 2045, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao góp ý thêm, đối ngoại cần tranh thủ tối đa môi trường thuận lợi cho phát triển trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn gia tăng; nâng cao chất lượng tăng trưởng và tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài, phát hiện cơ hội để đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa nguồn cung; tìm kiếm nguồn đầu tư có chất lượng để phục vụ phát triển đất nước…
Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn căng thẳng và xung đột vũ trang diễn ra ở nhiều nơi, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nhấn mạnh ý nghĩa của một nền ngoại giao hòa hiếu. Ông nhắc lại thời đại ngoại giao Hồ Chí Minh với những tư tưởng, thực tiễn xử lý quan hệ luôn hài hòa giữa lợi ích quốc gia và bối cảnh quốc tế phức tạp.
Ngày nay, tư tưởng ấy, theo ông Vinh, vẫn luôn đúng. Mà điều đầu tiên ông nhấn mạnh là ngoại giao phải giữ vững độc lập, tự chủ; nhấn mạnh lợi ích quốc gia dựa trên luật pháp quốc tế và hợp tác các bên cùng có lợi.
“Độc lập, tự chủ giúp Việt Nam có quyết sách hài hòa, không đứng về bên này hay bên kia, không rơi vào bẫy cạnh tranh mà vẫn tranh thủ được sự ủng hộ của các bên”, ông Vinh nêu quan điểm.
Bên cạnh đó, vị chuyên gia góp ý cần đề cao chính nghĩa trong xử lý các vấn đề quốc tế; đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện hơn, sâu rộng hơn, thực chất hơn.
Tại hội thảo “Ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh: 80 năm tận tụy phụng sự quốc gia, dân tộc” do Bộ Ngoại giao tổ chức hồi cuối tháng 7, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nhận định ngoại giao Việt Nam đã đóng góp xứng đáng vào việc hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Đặc biệt, ngoại giao kinh tế đã trở thành nhiệm vụ trung tâm, là một động lực quan trọng cho sự phát triển đất nước. Việt Nam đã thu hút được hàng trăm tỷ USD vốn FDI, trở thành một trong 20 quốc gia có quy mô thương mại lớn nhất thế giới, là một mắt xích quan trọng trong 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), gắn kết Việt Nam với hơn 60 nền kinh tế chủ chốt trên toàn cầu.
“Ngoại giao đã góp phần quan trọng nâng cao vị thế đất nước, đưa Việt Nam từ chỗ không có tên trên bản đồ chính trị thế giới đến vai trò, vị trí ngày càng tăng trong nền chính trị thế giới, kinh tế toàn cầu và văn minh nhân loại”, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh.
Theo Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, trải qua 8 thập kỷ, từ chỗ “thân cô thế cô,” Việt Nam nay đã có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, xây dựng được mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 37 nước, trong đó có tất cả các nước lớn và toàn bộ 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc; là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực. Đảng ta cũng đã có quan hệ với 259 chính đảng tại 119 nước.
Trong tham luận “Bản lĩnh, trí tuệ: Ngoại giao góp phần thay đổi cục diện, chuyển nguy thành cơ, góp phần hoá giải các thách thức và mở ra cơ hội phát triển cho dân tộc”, Đại sứ Tôn Nữ Thị Ninh, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, nhìn nhận qua nhiều thập kỷ từ khi chính thức gia nhập Liên Hợp Quốc, ngoại giao Việt Nam đã thể hiện sự bài bản và khéo léo, hiệu quả trong kết hợp khuôn khổ ngoại giao đa phương và song phương, cũng như các kênh ngoại giao (từ kênh chính quyền đến Quốc hội và nhân dân) cùng những bình diện khác nhau (chính trị, kinh tế - thương mại, văn hóa và truyền thông).
“Hành trình hội nhập quốc tế và khu vực một cách chủ động, bản lĩnh, bài bản, cân nhắc bối cảnh, lợi ích, tương quan các bên, cùng với việc tham gia hàng loạt hiệp định thương mại đa phương cho thấy Việt Nam trong thời bình đã vươn lên, vừa phát triển kinh tế thương mại, vừa đảm bảo chủ quyền quốc gia, là minh chứng cho bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam tiếp tục được phát huy trong thời kỳ mới”, Đại sứ Tôn Nữ Thị Ninh nêu quan điểm.
Theo bà, ngành ngoại giao cần xác định nguy cơ, trở ngại cũng như tranh thủ phát huy thời cơ, tạo cục diện đối ngoại tối ưu cho sự vươn lên của Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Điểm lại những thành tựu và khó khăn trên chặng đường 8 thập kỷ qua, Đại sứ Nguyễn Dy Niên, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao, giao không giấu nổi niềm tự hào khi nhắc về vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế hiện nay.
"Cho đến nay, với 12 đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các nước lớn trên thế giới và khu vực, hàng chục đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều nước khác, có thể nói vị thế của Việt Nam trên thế giới rất cao và rất vững", nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên nhấn mạnh.
Giai đoạn hiện nay, theo ông, đây là cơ hội vàng để Ngoại giao Việt Nam phát huy năng lực tiềm tàng.
Phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Ngoại giao lần thứ I nhiệm kỳ 2025-2030 hồi tháng 7, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng ghi nhận ngành ngoại giao đã nỗ lực, phấn đấu không ngừng nghỉ, tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Theo người đứng đầu Chính phủ, đối ngoại đã không ngừng củng cố “thế và lực,” mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, khu vực, các nước bạn bè truyền thống, mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược.
Thủ tướng đề nghị ngành ngoại giao tiếp tục phát huy vai trò tiên phong, trọng yếu, nòng cốt trong thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn bè tốt, đối tác tin cậy với tất cả các nước, là thành viên tích cực, có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, vì mục tiêu hòa bình, hợp tác, phát triển.
Cũng theo yêu cầu của Thủ tướng, ngành ngoại giao phải theo dõi thường xuyên, nắm chắc tình hình khu vực và thế giới đảm bảo bao trùm, toàn diện; phản ứng linh hoạt, kịp thời, hiệu quả với diễn biến tình hình và tham mưu chiến lược kịp thời, không để Đảng, Nhà nước bất ngờ trước các vấn đề mới.
Thủ tướng tin tưởng với tinh thần, trách nhiệm cao, đam mê nghề nghiệp, khát vọng cống hiến, ngành ngoại giao sẽ thực hiện thành công đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Nội dung: Hoài Thu
Thiết kế: Tuấn Huy