7 thiên tài toán học không học toán ở đại học

Nhiều nhà toán học nổi tiếng trong lịch sử không theo học toán tại đại học, mà phần lớn thành tựu và phát hiện quan trọng của họ đều nhờ vào việc tự học và niềm đam mê bẩm sinh với toán.
1. Srinivasa Ramanujan
Sinh ngày 22/12/1887 tại bang Tamil Nadu (Ấn Độ), Ramanujan là một trong những nhà toán học lừng danh nhất thời của mình, với nhiều đóng góp quan trọng cho các lĩnh vực như hàm elliptic, phân số liên tục và chuỗi vô hạn. Ông đặc biệt nổi bật trong lĩnh vực lý thuyết số giải tích.
Ngay từ nhỏ, Ramanujan bộc lộ năng khiếu bẩm sinh với các con số. Năm 15 tuổi, ông say mê một cuốn sách toán học, tự phát triển định lý, sáng tạo công thức riêng và từ đó bước vào hành trình trở thành thiên tài toán học.
Theo QS Top Universities, dù rất tài năng, Ramanujan gặp nhiều khó khăn về tài chính và không có việc làm ổn định trong cuộc đời ngắn ngủi của mình. Tuy nhiên, khả năng Toán học thiên bẩm của ông thật sự ấn tượng. Qua thư từ với nhà toán học Anh Godfrey H. Hardy, ông được nhận học bổng tại Đại học Trinity, Cambridge (Anh). Tuy nhiên, ông không học chuyên ngành toán mà lấy bằng Cử nhân Khoa học nghiên cứu - học vị cao tương đương tiến sĩ thời đó.
2. Stefan Banach
Một trong những nhà toán học hàng đầu thế kỷ 20, Banach sáng lập ngành phân tích hàm hiện đại, đóng góp cho lý thuyết không gian vectơ topo, đo lường và tích phân.
Tuổi thơ, ông được cha gửi cho gia đình khác nuôi dưỡng. Sau Thế chiến I, nhờ Giáo sư Hugo Steinhaus, Banach trở thành trợ giảng tại Học viện Bách khoa Lwów (nay là Đại học Bách khoa Quốc gia Lviv) và lấy bằng tiến sĩ mà chưa từng tốt nghiệp đại học.
3. Oliver Heaviside
Sinh ở London, Oliver Heaviside vừa là nhà toán học vừa là nhà vật lý, nổi tiếng nhờ tự học. Ông dự đoán sự tồn tại của tầng điện li phản xạ sóng radio và áp dụng phép toán Laplace vào nghiên cứu điện học.
Mắc bệnh ban đỏ dẫn đến điếc một phần, ông bỏ học năm 16 tuổi. Được Sir Charles Wheatstone hỗ trợ, Heaviside tự học ngoại ngữ, âm nhạc, điện báo và làm việc tại Đan Mạch. Tại đây, ông chứng minh vì sao tín hiệu điện báo từ Anh sang Đan Mạch truyền nhanh hơn chiều ngược lại.
4. Mary Everest Boole
Tự học toán từ nhỏ và phải nghỉ học từ năm 11 tuổi, Mary Everest Boole sau này nổi tiếng với sách Philosophy and Fun of Algebra và phương pháp dạy toán qua trò chơi.
Lớn lên ở Pháp, bà được học tại nhà, sau đó về Anh và học từ nhà toán học George Boole – người chồng tương lai. Làm thủ thư ở Queen’s College, bà đam mê dạy học dù luật cấm phụ nữ làm giáo viên chính thức. Nhiều phương pháp bà sáng tạo vẫn được áp dụng ngày nay.
5. Florence Nightingale
Nightingale - “người phụ nữ với cây đèn” - được biết đến như bà tổ ngành điều dưỡng, nhưng cũng là nhà thống kê xuất sắc.
Từ nhỏ, bà yêu thích toán và được cha dạy. Sau này, bà thu thập, phân tích số liệu để chứng minh tác hại của vệ sinh kém trong bệnh viện, giúp giảm mạnh tỷ lệ tử vong ở quân y và dân y.
Nightingale tiên phong sử dụng biểu đồ tròn và phát minh biểu đồ vùng cực (polar area chart) để trình bày dữ liệu.
6. Benjamin Banneker
Nhà khoa học Mỹ gốc Phi, Banneker xuất thân từ gia cảnh ít được học hành, chủ yếu tự học. Ông từng tham gia khảo sát ranh giới ban đầu của Washington D.C., nghiên cứu về tính tương đối của thời gian và không gian, và dự đoán chính xác nhật thực ngày 14/4/1789.
Banneker cũng là người đầu tiên ghi nhận rằng sao Sirius gồm hai ngôi sao - điều chỉ được xác nhận hơn 200 năm sau bằng kính viễn vọng Hubble.
7. Thomas Fuller (Virginia Calculator)
Được biết đến với biệt danh “Máy tính Virginia” (Mỹ), Thomas Fuller là một người châu Phi bị bắt làm nô lệ từ năm 14 tuổi. Ông sở hữu khả năng tính nhẩm phi thường, được các nhà chống chế độ nô lệ dùng làm bằng chứng phản bác quan niệm người da đen kém thông minh.
Khoảng 70 tuổi, ông gặp William Hartshorne và Samuel Coates từ Pennsylvania. Khi được hỏi những câu như “Một năm rưỡi có bao nhiêu giây?” hay “Người 70 tuổi đã sống bao nhiêu giây?”, ông trả lời chính xác trong vài giây. Dù không biết đọc viết, các sử gia tin ông đã phát triển năng lực toán học từ rất sớm, trước khi bị đưa sang Mỹ.
Fuller mất năm 80 tuổi.