Mặc dù ngắn gọn, dự thảo Báo cáo chính trị đã đưa ra được những quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể về bảo vệ môi trường cơ bản hợp lý và khả thi. Một số nội dung cụ thể nên được xem xét, điều chỉnh cho phù hợp.
Môi trường không khí tại các đô thị lớn chưa tốt lên
Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 13 trình Đại hội 14 của Đảng (sau đây gọi tắt là dự thảo) rất quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường.
Trình bày về các kết quả đạt được trong nhiệm kỳ qua, dự thảo nêu rõ các tiến bộ trong sản xuất nông nghiệp như từng bước phát triển theo hướng sinh thái, xanh, tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng, hiệu quả với mục đích đạt được sản lượng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội và xuất khẩu nhưng bảo vệ tốt hơn môi trường tự nhiên, chống suy thoái đất. Dự thảo nhấn mạnh các tiến bộ trong quản lý và sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai; thể chế, chính sách từng bước được hoàn thiện; năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu được nâng lên; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa phương chặt chẽ, hiệu quả hơn.
Về các hạn chế, yếu kém, ô nhiễm môi trường chưa được kiểm soát hiệu quả, có mặt còn trầm trọng hơn, nhất là môi trường ở các đô thị lớn, khu công nghiệp và các làng nghề. Khả năng ứng phó, giảm thiểu tác hại của thiên tai và biến đổi khí hậu chưa đáp ứng yêu cầu. Việc quản lý, sử dụng tài nguyên, khoáng sản, nhất là đất đai và nguồn nước hiệu quả chưa cao.
Trong thực tế, các báo cáo môi trường hiện trạng quốc gia hàng năm cho thấy mặc dù lượng chất thải hàng năm liên tục tăng lên do dân số và các hoạt động kinh tế - xã hội gia tăng liên tục nhưng đã có những tiến bộ đáng kể trong việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn. Tuy nhiên, mục tiêu phân loại chất thải rắn tại nguồn để tạo điều kiện xây dựng nền kinh tế tuần hoàn và tăng hiệu quả xử lý chất thải vào ngày 1/1/2025 chưa được thực hiện.
Tình hình thu gom và xử lý nước thải công nghiệp tại các khu công nghiệp cũng có những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, các tiến bộ trong thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt tại các đô thị và nước thải tại các làng nghề chưa đủ để có thể cải thiện đáng kể môi trường nước mặt tại các đô thị và làng nghề.
Vấn đề môi trường không khí, đặc biệt là môi trường không khí tại các đô thị lớn chưa tốt lên chưa được đề cập.
Ngoài ra, dự thảo chưa đề cập tới tình hình quản lý đa dạng sinh học. Trong nhiệm kỳ qua, đa dạng sinh học rừng, các khu dân cư tại đô thị, nông thôn và đa dạng sinh học biển đã được quản lý tốt hơn. Tuy nhiên, đa dạng sinh học của Việt Nam vẫn tiếp tục bị suy thoái do hiện tượng săn bắt động vật hoang dã rừng, săn bắt chim hoang dã tại các khu dân cư và đánh bắt quá mức, thậm chí hủy diệt đối với thủy sản biển còn rất phổ biến.
Ngoài những nguyên nhân của các tồn tại yếu kém như dự thảo đã chỉ ra, còn do nhận thức và quyết tâm bảo vệ môi trường của các cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương chưa cao, chưa đầu tư đủ nguồn lực để bảo vệ môi trường.
Dự thảo cũng dự báo bối cảnh thế giới trong nhiệm kỳ 2026-2030 là sẽ đẩy mạnh chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng. Đối với trong nước thì biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ngày càng gay gắt. Tuy nhiên, dự thảo lại chưa đưa ra dự báo về xu thế diễn biến môi trường của nước ta trong nhiệm kỳ tới nếu như không có quyết tâm chính trị và đầu tư phù hợp để cải thiện môi trường.
Quan điểm chỉ đạo về chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường trong nhiệm kỳ 5 năm 2026-2030 trong dự thảo là phù hợp.
Các mục tiêu cần điều chỉnh
Về các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển chủ yếu trong 5 năm từ 2026-2030, dự thảo đưa ra tỷ lệ che phủ rừng duy trì mức 42%; tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt khoảng 65-70%; lượng phát thải khí nhà kính giảm 8-9%; tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường đạt khoảng 98-100%; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia.
Tỷ lệ che phủ rừng hiện nay ở Việt Nam là 42% tới 43% nên mục tiêu duy trì mức 42% là phù hợp và khả thi.
Cần phải xem lại mục tiêu tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt khoảng 65-70%.
Theo các kết quả nghiên cứu trên thế giới, mức thu nhập đầu người có mối liên quan rất chặt chẽ với tỷ lệ nước thải được xử lý trước khi thải ra môi trường.
Các nước phát triển và có thu nhập cao có tỷ lệ xử lý nước thải trung bình khoảng 74%. Các nước có thu nhập trung bình cao có tỷ lệ xử lý nước thải trung bình khoảng 43%. Các nước có thu nhập trung bình thấp có tỷ lệ xử lý nước thải trung bình khoảng 26%.
Vào năm 2030, cho dù tốc độ tăng trưởng thu nhập đầu người trung bình là 12% thì nước ta vẫn là nước thu nhập trung bình cao với thu nhập đầu người đạt khoảng 8.500 USD/năm.
Hiện tại, ngay tại các đô thị lớn như Hà Nội và TPHCM vẫn chưa có hệ thống thoát nước thải riêng với hệ thống thoát nước mưa tại phần lớn diện tích đô thị. Việc cải tạo hệ thống thoát nước hiện có và xây dựng thêm hệ thống thoát nước thải tách riêng đòi hỏi thời gian lớn và một nguồn kinh phí khổng lồ, khó có thể thực hiện được trong thời gian 5 năm.
Ngoài ra, tại các vùng nông thôn hiện nay nước thải sinh hoạt mới chỉ được xử lý qua bể phốt và đổ trực tiếp ra các cống, rãnh rồi chảy ra mương máng, cuối cùng chảy ra sông.
Như vậy, hầu như khó có khả năng nước ta xử lý được 65-70% nước thải vào năm 2030. Mục tiêu khả thi nhất cho nước thải nên là tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt khoảng 35-40%.
Mục tiêu lượng phát thải khí nhà kính giảm 8-9% vào năm 2030 khó đạt được vì chúng ta chưa có đủ nguồn năng lượng sạch, ổn định để có thể sử dụng tối đa năng lượng gió, năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, nếu quản lý tốt và nâng cao chất lượng rừng thì mục tiêu này có thể đạt được một cách tiệm cận.
Đối với tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường đạt khoảng 98-100% thì đây là một thách thức rất lớn vì nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ và rất nhỏ cần đầu tư rất lớn để chuyển đổi công nghệ và hệ thống xử lý chất thải, nhất là nước thải. Vì vậy, nên giảm tỷ lệ này xuống còn khoảng 85-90%.
Mục tiêu tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia là rất thách thức. Hiện tại, các số liệu được công bố cho thấy tỷ lệ diện tích vùng biển Việt Nam được bảo tồn hiện nay chỉ khoảng 0,208%.
Theo quy hoạch không gian biển quốc gia, vào năm 2030 tỷ lệ khu bảo tồn biển chiếm khoảng 0,463%; khu vực được bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bao gồm các khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản và khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn chiếm khoảng 2,303% và khu Ramsar, khu bảo tồn đất ngập nước ven biển chiếm khoảng 1,5% diện tích tự nhiên vùng biển Việt Nam.
Nếu tính tất cả các khu vực nêu trên vào diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển thì diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển chỉ đạt 4,266% diện tích tự nhiên vùng biển Việt Nam. Vậy, nên thay đổi chỉ tiêu này thành tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 4,3% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia để khả thi hơn.
Điểm đặc biệt
Các mục tiêu có cơ chế, chính sách đột phá, vượt trội để phát triển các mô hình kinh tế mới và các dự án trọng điểm, quy mô lớn như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, điện hạt nhân, điện mặt trời, điện gió ngoài khơi... là hợp lý và cần đáp ứng.
Ngoài ra, mục tiêu hoàn thiện đồng bộ thể chế quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, chủ động xây dựng thể chế để thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn cũng hợp lý và cần phải đặt ra.
Vấn đề chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên biển để khai thác, sử dụng hiệu quả không gian biển, phát triển các khu đô thị sinh thái, bảo vệ tài nguyên, môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu là những nội dung quan trọng mà dự thảo đã đặt ra.
Một điểm rất đặc biệt của dự thảo lần này là dành hẳn một phần để trình bày về các mục tiêu quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.
Các mục tiêu đều rất hợp lý, cần phải được thực hiện để đạt được phát triển bền vững và rất khả thi. Những nhiệm vụ trọng tâm liên quan đến bảo vệ môi trường cũng được trình bày trong dự thảo. Chẳng hạn, dự thảo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết có nêu: "Ban hành các cơ chế, chính sách đồng bộ nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở các đô thị lớn, đặc biệt là ô nhiễm ở Hà Nội và TPHCM", "Xây dựng triển khai Đề án xử lý cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường không khí tại Hà Nội và TPHCM".















